TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 57/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 223/2023/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 74/2023/QĐXX-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1988. (đề nghị xử vắng mặt) Quê quán và nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988. (đề nghị xử vắng mặt) Quê quán: Thôn N, xã N, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Thanh Lâm – Cục C10 – Bộ Công an.
Địa chỉ: Thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai của nguyên đơn, lời khai của bị đơn có trong hồ sơ vụ án thì nội dung vụ án tóm tắt như sau.
Chị Nguyễn Thị V kết hôn với anh Nguyễn Văn Đ vào tháng 8/2008, kết hôn do hai bên tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Thuận Thành (nay là thị xã Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh.
Theo phía chị V trình bày: Chị có quen biết với anh Nguyễn Văn Đ là người thôn N, xã N, thị xã Thuận Thành. Sau khi tìm hiểu, yêu thương hai bên đã đi đến hôn nhân cùng nhau. Kể từ sau khi cưới vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh Đ, vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì cũng đã nảy sinh mâu thuẫn.
Theo chị V thì anh Đ trong cuộc sống gia đình đã không chịu làm ăn, anh Đ không chăm lo gia đình mà chơi bời tệ nạn. Kể từ thời điểm năm 2013 anh Đ đã vi phạm pháp luật và bị Tòa án kết án phải đi cải tạo. Đến năm 2020 anh Đ được ra tù nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó anh Đ lại vi phạm pháp luật và lại bị Tòa án kết án. Hiện nay anh Đ đang phải cải tạo tại Trai giam Thanh Lâm – Cục C10 – Bộ Công an. Nay chị thấy vợ chồng không còn tình cảm với nhau, vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Bản thân chị cũng không thấy có tương lai trong mối quan hệ hôn nhân với anh Đ, nên chị đề nghị Tòa án giải quyết để được ly hôn anh Đ.
Về con chung: Chị V trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Kim Chi, sinh ngày 6/8/2009, hiện cháu Chi đang do chị nuôi dưỡng. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi con chung, nếu được nuôi con chị không yêu cầu anh Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị.
Về tài sản chung: Chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Phía anh Đ trình bày: Anh Đ hiện đang cải tạo tại Trại giam Thanh Lâm – Cục C10 – Bộ Công an. Phía anh Đ cũng xác định anh với chị V có mối quan hệ hôn nhân cùng nhau, vợ chồng đăng ký kết hôn từ năm 2008. Sau đó đến năm 2012 anh bị Tòa án kết án phải đi cải tạo. Kể từ đó vợ chồng có nhiều mâu thuẫn với nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Nay anh thấy vợ chồng cũng không thể chung sống với nhau được nữa, anh đồng ý ly hôn theo như yêu cầu của chị V.
Về con chung: Anh Đ trình bày xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Kim Chi, sinh ngày 6/8/2009. Do anh đang phải đi cải tạo nên anh đồng ý để chị V tiếp tục trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung: Anh Đ cũng không có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa cả phía chị V và anh Đ đều vắng mặt nên không có lời trình này tại phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa công bố toàn bộ lời khai, yêu cầu của các đương sự được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Theo đó chị V, anh Đ đều thuận tình ly hôn. Về con chung hai bên thống nhất để chị V tiếp tục trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con chung chị V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản chung hai bên không có yêu cầu gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với các đương sự trong vụ án đều có đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ.
Về giải quyết vụ án: Thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay cả chị V và anh Đ đều thuận tình ly hôn, tuy nhiên tại phiên tòa chị V, anh Đ vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị V được ly hôn anh Đ. Về con chung đề nghị áp dụng các Điều 81, 82 và 83 xử giao cho chị V được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Cấp dưỡng nuôi con chung không giải quyết do chị V không yêu cầu. Về tài sản chung không xem xét giải quyết do cả chị V và anh Đ đều không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Từ nội dung trên:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Nguyễn Thị V được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Anh Đ hiện đang cải tại tại Trại giam Thanh Lâm có địa chỉ tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa nhưng anh Đ có quê quán tại thị xã Thuận Thành. Do vậy việc Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị V là có căn cứ.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V kết hôn với anh Nguyễn Văn Đ vào tháng 8/2008, kết hôn do tự nguyện và có đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi cưới vợ chồng về chung sống hạnh phúc và đã có 01 con chung. Tuy nhiên sau đó cuộc sống vợ chồng dần dẫn đã nảy sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân là do anh Đ không chịu tu dưỡng bản thân, không chăm lo gia đình vợ con. Bản thân anh Đ liên tiếp phạm tội và bị Tòa án kết án. Theo chị V trình bày thì anh Đ đã hai lần bị Tòa án kết án và phải đi cải tạo nên đã làm cho cuộc sống hôn nhân của hai bên đi vào ngõ cụt. Bản thân thị V thấy không có tương lại trong mối quan hệ hôn nhân với anh Đ. Phía anh Đ cũng đồng thuận ly hôn theo như yêu cầu của chị V. Đến thời điểm hiện nay cả hai vợ chồng đều xác định không thể tiếp tục cuộc sống chung và đều thuận tình ly hôn, do vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V, xử cho chị V được ly hôn anh Đ.
[2.2]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Kim Chi, sinh ngày 6/8/2009, hiện cháu Chi đang do chị V nuôi dưỡng. Do anh Đ hiện nay đang phải đi cải tạo tại Trại giam nên cần giao con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con chung không xem xét giải quyết do chị V không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chung.
[2.3]. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết do chị V, anh Đ không có yêu cầu.
[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.
2. Về con chung: Giao cho chị V được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Nguyễn Thị Kim Chi, sinh ngày 6/8/2009. Cấp dưỡng nuôi con chung không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở việc thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết do chị V, anh Đ không có yêu cầu.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà chị V đã nộp theo biên lai thu số 0006214 ngày 12/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
5. Về quyền kháng cáo: Chị V, anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 57/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 57/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về