Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 212/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2022 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐ-ST ngày 21 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1995. Địa chỉ: Xóm C, xã VB, huyện LS, tỉnh HB. Vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Trần Văn S, sinh năm 1994. Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn A, xã VL, huyện TH, tỉnh NA.

Hiện đang làm việc tại: Nhật Bản. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Chị H và anh Trần Văn S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 13/01/2016 và có 01 con chung. Tháng 10/2018, anh Trần Văn S đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, thời gian đầu vợ chồng có liên lạc với nhau, đến năm 2019 không còn liên lạc với nhau nữa. Do không liên lạc được với anh S và gia đình anh S không cung cấp địa chỉ nên chị H không biết địa chỉ của anh S ở nước ngoài. Xét thấy vợ chồng sống xa nhau, không quan tâm đến nhau và quan điểm sống ngày càng khác nhau nên chị Phạm Thị H đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trần Văn S.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Trần Duy M, sinh ngày 26/5/2016 đang ở với chị H; nếu vợ chồng ly hôn chị H đề nghị Tòa án giao con chung Trần Duy M cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Trần Văn S cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía anh Trần Văn S: Sau khi thụ lý vụ án Toà án đã gửi các văn bản tố tụng; thông báo thụ lý vụ án; yêu cầu anh Trần Văn S có quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án; gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Trần Văn S thông qua bà Trần Thị V, sinh năm 1967 (mẹ đẻ anh S); thực hiện thủ tục niêm yết công khai các văn bản trên theo quy định của pháp luật nhưng hiện tại anh Trần Văn S vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gì. Theo trình bày của bà Vượng thì anh S có điện thoại về cho gia đình nhưng không nói rõ địa chỉ hiện tại của anh S ở đâu và anh S đã biết việc chị H làm đơn ly hôn tại Tòa án, anh S không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu quan điểm:

- Về thẩm quyền thụ lý vụ án: Anh S hiện đang ở Nhật Bản nên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS; bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 72 BLTTDS.

- Việc thu thập chứng cứ và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của họ. Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, theo bà Trần Thị V, sinh năm 1967 (mẹ anh S) cung cấp thông tin hiện nay anh S đang sinh sống tại Nhật Bản, mặc dù không biết nơi cư trú cụ thể, nhưng anh S thỉnh thoảng gọi điện thoại về cho bà V; anh S đã biết được việc chị H xin ly hôn và không có ý kiến gì. Việc anh S vắng mặt được xác định cố tình giấu địa chỉ, do đó đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định pháp luật và xử cho chị H được ly hôn với anh S.

- Về nuôi con chung: Hiện nay con chung Trần Duy M, sinh ngày 26/5/2016 đang ở với chị H. Vì vậy, tiếp tục giao con chung chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; anh S có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con theo quy định.

- Về cấp dưỡng nuôi con do chị Phạm Thị H không yêu cầu, anh Trần Văn S chưa có ý kiến nên chưa xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự chưa yêu cầu nên dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Chị H trình bày anh S đang ở Nhật Bản nhưng không biết địa chỉ cụ thể. Tòa án đã tiến hành xác minh tại người thân của anh S là bà Trần Thị V (mẹ anh S) thì được cung cấp anh S hiện nay đang ở Nhật Bản thỉnh thoảng gọi điện thoại về cho bà Trần Thị V. Ngày 23/12/2021, Cục quản lý xuất nhập cảnh có công văn số 31770/QLXNC(P5) cung cấp thông tin anh Trần Văn S xuất cảnh ngày 04/10/2018 qua cửa khẩu sân bay Quốc tế Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước.

Do anh S trước khi xuất cảnh có địa chỉ cuối cùng tại xã VL, huyện TC, tỉnh NA và hiện nay đang ở nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, bà V (mẹ anh S) cung cấp hiện nay anh S đang ở Nhật Bản nhưng không biết địa chỉ cụ thể; anh S vẫn gọi điện thoại về cho bà V và đã biết được chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn tại Tòa án nhưng anh S không có ý kiến gì. Như vậy, anh S đã biết được chị H yêu cầu ly hôn nhưng vẫn không cung cấp địa chỉ và vắng mặt là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo. Vì vậy, căn cứ Điều 207; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Chị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên nội dung khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh S. Xét thấy, chị H, anh S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống xa nhau, chị H ở Việt Nam, anh S ở nước ngoài. Do vợ chồng sống xa nhau, không liên lạc với nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, giải quyết cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Trần Văn S là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Duy M, sinh ngày 26/5/2016, đang ở với chị H. Hiện nay, anh S đang ở nước ngoài không có điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị H đang ở Việt Nam có nguyện vọng được nuôi con chung. Vì vậy, giao con chung Trần Duy M cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với các quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng: Chị Phạm Thị H chưa yêu cầu, anh Trần Văn S chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử chưa xem xét, giải quyết.

[5] Tài sản chung và nợ chung: Chị Phạm Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Trần Văn S vắng mặt chưa có ý kiến nên dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

[6] Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84, 122, 123, 127 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 37; Điều 40; Điều 147; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị H được ly hôn với anh Trần Văn S.

2. Về nuôi con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con:

Giao con chung Trần Duy M, sinh ngày 26/5/2016 cho chị Phạm Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Chị Phạm Thị H chưa yêu cầu anh Trần Văn S cấp dưỡng nuôi con. Vì quyền lợi của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011603 ngày 13 tháng 12 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Anh Trần Văn S vắng mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về