Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 42/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 21 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 379/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2022/QĐST-DS ngày 21/02/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2022/QĐST-DS ngày 31/3/2022 , giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1991 (có mặt).

Nơi cư trú: thôn Tr, xã T, huyện C, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quang V, sinh năm 1989 (có mặt). Nơi cư trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện Lục Nam, Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Quang V kết hôn ngày 10/9/2013, trên cơ sở tự nguyện. Trước khi kết hôn có tìm hiểu nhau và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Lục Nam. Hai người sống hạnh phúc một thời gian dài và đã có hai con chung: Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là: Từ năm 2018 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, hay cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung, đã có lần anh V đánh chị, cuộc sống trong gia đình căng thẳng, ảnh hưởng đến các con. Đến tháng 1/2021 mâu thuẫn vợ chồng lại xảy ra, chị và anh V sống ly thân, hai người không còn quan hệ vợ chồng từ thời điểm này. Xác định tình cảm vợ chồng đã hết, nên chị xin được ly hôn anh V.

- Về con chung: Chị và anh V có hai con chung như trình bày ở trên, nếu ly hôn, chị xin nuôi cả hai con. Trường hợp Tòa án không chấp nhận cho chị nuôi hai con, thì chị xin nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, để anh V nuôi con Phạm Quang Nh.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Hiện tại chị đang làm việc tại Công ty TNHH công nghệ N tại tỉnh Hải Dương, thu nhập bình quân hàng tháng từ 9 đến 11 triệu đồng, đủ để nuôi dưỡng con.

- Về tài sản chung: Để chị và anh V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Phạm Quang V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh công nhận điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn như chị Th trình bày là đúng.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do: Tháng 12/2020 anh phát hiện chị Th có quan hệ tình cảm yêu đương với người có giới tính thứ 3, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, to tiếng, bất đồng quan điểm; cuộc sống vợ chồng lạnh nhạt, không còn thương yêu nhau và không còn tình cảm như trước nữa. Sự việc trên đã được hai bên gia đình khuyên ngăn, hòa giải để đoàn tụ, nhưng chị Th không nghe. Nay chị Th xin ly hôn, anh đồng ý.

- Về con chung: Anh và chị Th có hai con chung như chị Th trình bày là đúng. Trường hợp phải ly hôn, anh xin nuôi cả hai con, anh không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con chung.

Lý do anh xin nuôi 2 con vì: Nếu giao con cho chị Th nuôi sẽ không đảm bảo cho sự phát triển của con. Chị Th hiện đang làm tại doanh nghiệp của tỉnh Hải Dương, thu nhập 5.000.000 đồng/tháng, thời gian đi làm theo ca kíp, có tuần làm ngày, tuần làm đêm; hiện tại chị Th đang bị u ác tính tuyến giáp, cần tập chung kinh tế để chữa bệnh. Gia đình chị Th không thể hỗ trợ cho chị Th chăm sóc con được.

Anh đang làm tại Công ty TNHH V1 tại tỉnh Bắc Ninh, thu nhập 25.000.000 đồng/tháng; ngày làm 8 tiếng, không phải làm ca và được bố mẹ đẻ giúp đỡ, có thể chăm sóc các con được.

- Về tài sản chung: Để anh và chị Th tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại phiên tòa, chị Th không rút đơn khởi kiện, từ thời điểm khai mạc phiên tòa đến kết thúc thủ tục hỏi tại phiên tòa, các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án. Tại phần tranh luận, các đương sự thỏa thuận được việc giải quyết vụ án; các đương sự trình bày như sau:

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày: Chị và anh V kết hôn năm 2013, trong quá trình chung sống, chị và anh V có hai con chung là: Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016. Trong cuộc sống vợ chồng những năm gần đây, chị và anh V thường không có quan điểm chung, hay cãi nhau, đến tháng 12/2020 vợ chồng lại xảy ra cãi nhau, chị và anh V sống ly thân từ đây, hai bên đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Chị thấy không còn tình cảm với anh V, nên đề nghị Tòa án cho được ly hôn.

Về con chung: chị và anh V có hai con như trình bày ở trên. Nếu ly hôn chị xin nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016, để anh V nuôi con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014. Chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị đang làm tại doanh nghiệp, thu nhập khoảng 11 triệu đồng/tháng, đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản: Để chị và anh V tự thỏa thuận giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Quang V trình bày: Anh công nhận thời gian kết hôn, con chung như chị Th trình bày là đúng, khoảng hai năm gần đây vợ chồng có nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân, hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không thành. Đến nay anh xác định không còn tình cảm với chị Th, chị Th làm đơn ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Th có hai con chung như chị Th đã trình bày; hiện tại anh đang nuôi hai con. Trong quá trình Tòa án thụ lý, thu thập chứng cứ anh xin nuôi hai con, tại phiên tòa hôm nay anh thống nhất đồng ý để chị Th nuôi một con, anh xin nuôi một con, cụ thể: Anh xin trực tiếp nuôi con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014, để chị Th nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Để anh và chị Th tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều: 51, 55, 81, 82, 83, của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều: 147, 227, 271, và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí:

Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Quang V.

Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Quang V: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016; giao cho anh Phạm Quang V trực tiếp nuôi con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do các bên không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét. Về tài sản: Các bên không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Th xin chịu 150.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị Th đã nộp tạm ứng án phí. Trả lại chị Th 150.000 đồng tiền tạm ứng án phí.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Th có đơn xin ly hôn với anh Phạm Quang V nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS) xác định quan hệ pháp luật là "Tranh chấp hôn nhân và gia đình".

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Anh Phạm Quang V là bị đơn có địa chỉ cư trú tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Quang V kết hôn ngày 10/9/2013, trên cơ sở tự nguyện. Trước khi kết hôn có tìm hiểu nhau và tự nguyện đang ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Phú, huyện Lục Nam theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Th và anh V đã sống hạnh phúc một thời gian và có hai con chung là: Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do từ năm 2018 đến nay chị Th và anh V phát sinh nhiều mâu thuẫn, hay xảy ra cãi nhau, không ai bảo được ai, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, cả hai không còn quan hệ vợ chồng. Đến tháng 1/2021 thì mâu thuẫn giữa chị Th và anh V lại xảy ra và hai người chính thức sống ly thân. Hai bên gia đình đã hòa giải vận động chị Th và anh V về chung sống, nhưng chị Th không chấp nhận. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã hòa giải nhiều lần để các bên về đoàn tụ, nhưng chị Th xin vắng mặt và từ chối đoàn tụ, còn anh V đồng ý ly hôn chị Th; hiện tại chị Th và anh V đang sống ly thân. Tại phiên tòa, chị Th và anh V thống nhất xin thuận tình ly hôn. Như vậy chị Th và anh V đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn tình cảm với nhau, không có sự quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Th và anh V là phù hợp.

[2.3] Về con chung: Chị Th và anh V có hai con chung: Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014 và Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016. Sau khi thụ lý vụ án, cả chị Th và anh V đều có nguyện vọng nuôi cả hai con. Tại phiên tòa chị Th và anh V thỏa thuận để chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016; còn anh Phạm Quang V trực tiếp nuôi con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014. Xét thấy: Việc thỏa thuận nuôi con của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật. Do đó cần công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016, giao cho anh Phạm Quang V trực tiếp nuôi con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do các bên không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

Sau khi ly hôn các bên có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Th và anh V thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của người con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc buộc cấp dưỡng nuôi con, nếu sau này các đương sự có yêu cầu và theo qui định của pháp luật.

[3] Về tài sản chung: Các bên đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Th là nguyên đơn xin chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình 150.000 đồng.

[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều: 51, 55, 82, 83, 84, 107, 110, và 116 của Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 271;

Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Quang V.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Quang V: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 11/12/2016; giao cho anh Phạm Quang V trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Quang Nh, sinh ngày 28/3/2014.

Sau khi ly hôn chị Th và anh V có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở các đương sự thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th xin chịu cả 150.000 đồng một trăm năm mươi ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, số tiền này được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị Th đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013405 ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Trả lại chị Nguyễn Thị Th 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về