Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 399/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 399/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 342/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2021/QĐXX-ST ngày 06 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Kim C, sinh năm 1993 HKTT: Xóm 7, thôn PK, xã PP, huyện BV, Hà Nội Chỗ ở hiện nay: Tầng 3, phòng 1, số nhà A, phường NT, CG, Hà Nội.

- Bị đơn: Anh Phùng Văn V, sinh năm 1990 HKTT: Xóm 7, thôn PK, xã PP, huyện BV, Hà Nội Hiện đang chấp hành án tại Đội 26K1, trại giam SH, xã CL, huyện BV, TP. Hà Nội.

( Chị C có mặt, anh V xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị Kim C trình bày: Chị kết hôn với anh Phùng Văn V trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PP ngày 09/9/2015. Vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do cách sống của anh chị không hợp nhau, thường xuyên cãi vã, chị và anh V đã nhiều lần ngồi nói chuyện với nhau để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Anh chị đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay, nay chị xác định cuộc sống hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, chị xin được ly hôn anh V.

Về con chung: Chị C xác nhận có 01 con chung là cháu Phùng Đức A, sinh ngày 23/3/2016. Hiện đang ở cùng bà nội. Khi ly hôn, chị C có nguyện vọng nuôi cháu Phùng Đức A đến trưởng thành và không yêu cầu trợ cấp nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Phùng Văn V trình bày: Về điều kiện và thời gian kết hôn như chị C trình bấy, đến tháng 12/2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế khó khăn dẫn đến tình cảm vợ chồng xảy ra nhiều biến cố. Tháng 6/2020, anh vi phạm pháp luật liên quan đến ma túy, tháng 02/2021 anh g phải đi chấp hành án. Anh và chị C đã sống ly thân từ cuối tháng 12/2020 cho đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, mong muốn đoàn tụ. Nếu chị C kiên quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: Có 01 con chung như chị C trình bày. Khi Tòa án giải quyết ly hôn, anh đề nghị giải quyết con theo quy định pháp luât.

Về tài sản, nợ chung: Anh xác nhận không có.

Anh V đang chấp hành án tại Đội 26K1, trại giam SH, xã CL, huyện BV, TP. Hà Nội và có đơn xin vắng mặt tại các giai đoạn tố tụng tại Tòa án.

* Tại phiên tòa: Chị C vẫn giữ nguyên quan điểm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Phùng Văn V là bị đơn có HKTT tại xã PP, huyện Ba Vì, Hà Nội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị C và anh V là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng hay cãi vã nhau, anh V phải đi chấp hành án tại Trại giam. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2019, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị C và anh V đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình cho chị C được ly hôn anh V.

[3] Về con chung: Chị C và anh V có 01 con chung là cháu Phùng Đức A, sinh ngày 23/3/2016. Cháu Phùng Đức A còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc, giáo dục trực tiếp từ mẹ để con được phát triển toàn diện. Mặt khác, anh V đang chấp hành án nên không thể trực tiếp nuôi dưỡng con. Vì lợi ích của con, giao cháu Phùng Đức A cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, chị C không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con vì vậy tạm hoãn việc đóng góp nuôi con đối với anh V cho đến khi có yêu cầu khác là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh V được quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị C và anh V đều xác nhận không có.

[5] Về án phí: Chị C phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Kim C được ly hôn anh Phùng Văn V.

2. Về con chung: Giao cháu Phùng Đức A sinh ngày 23/3/2016, cho chị Trương Thị Kim C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Phùng Đức A đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh V cho đến khi có sự thay đổi khác. Anh V được quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị C đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí 0059801 ngày 04/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

5. Quyền kháng cáo: Chị C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 399/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:399/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về