TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 32/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2024/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2024 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 26/2024/QĐXX - ST ngày 15 tháng 7 năm 2024, Quyết định hoãn phiên Tòa số 26/2024/QĐST- HNGĐ ngày 12/8/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Đặng Ngọc V, sinh năm 1990.
Nơi cư trú: Số nhà A, đường L, tổ A, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Chị Hà Thị Minh T, sinh năm 1991.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
Đều cư trú tại: Số nhà A, đường L, tổ A, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
(Chị T vắng mặt tại phiên Tòa, anh V có đơn xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 22/4/2024, cũng như tại Bản tự khai, nguyên đơn anh Đặng Ngọc V trình bày: Anh và chị Hà Thị Minh T tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 01/11/2016 tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Nguyên nhân chính dẫn đến việc anh có đơn ly hôn chị Hà Thị Minh T. Sau khi kết hôn vợ chồng anh về sinh sống cùng mẹ đẻ anh tại tổ A, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên vợ chồng đã sống ly thân. Nay anh xác định tình cảm giữa anh và chị T không còn, anh kiên quyết xin ly hôn chị T. Việc ly hôn anh đã suy nghĩ kỹ và hoàn toàn tự nguyện.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống, anh và chị T có một con chung là Đặng Minh Đ. Ly hôn, anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là chị Hà Thị Minh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa nhưng chị T không đến Tòa án.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Ngọc V được ly hôn chị Hà Thị Minh T. Về quan hệ con chung: Giao con chung Đặng Minh Đ, sinh ngày 08/4/2017 cho anh Đặng Ngọc V trực tiếp nuôi. Anh V không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Về án phí: Anh Đặng Ngọc V phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà.
- Về thủ tục tố tụng: Anh Đặng Ngọc V có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo trình tự vắng mặt của nguyên đơn. Chị Hà Thị Minh T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt chị T.
- Về nội dung:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Ngọc V và chị Hà Thị Minh T kết hôn với nhau có đăng ký ngày 01/11/2026, tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình, đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa anh V và chị T không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau, chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình. Anh V và chị T đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân, anh V kiên quyết xin ly hôn chị T, như vậy, tình trạng hôn nhân giữa anh V và chị T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đặng Ngọc V, xử cho anh V được ly hôn chị T.
[2]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh V và chị T có một con chung Đặng Minh Đ, sinh ngày 08/4/2017. Anh V có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên cần giao cho anh V trực tiếp nuôi con là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung anh V khai: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị T không có văn bản nào gửi Tòa thể hiện quan điểm của mình về phần tài sản và không có lời khai về phần tài sản, không có mặt tại phiên tiếp cận chứng cứ công khai và hòa giải, tại phiên Tòa. Do đó phần tài sản Tòa án không giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.
[4]. Về án phí: Anh V phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Ngọc V được ly hôn chị Hà Thị Minh T.
2. Về quan hệ con chung: Anh Đặng Ngọc V và chị Hà Thị Minh T có một con chung Đặng Minh Đ, sinh ngày 08/4/2017. Xử giao con Đặng Minh Đ, sinh ngày 08/4/2017 cho anh Đặng Ngọc V trực tiếp nuôi con. Anh V không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết. Chị T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh V, chị T có quyền yêu cầu thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Tòa án không giải quyết về phần tài sản. Khi nào anh V và chị T có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.
4. Về án phí: Anh Đặng Ngọc V phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Anh V đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai số 0001256 ngày 08 tháng 5 năm 2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền anh V đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Anh Đặng Ngọc V và chị Hà Thị Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 32/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 32/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về