TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 281/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/QĐST- HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thùy H1, sinh năm 1991; NĐKHKTT: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn C, xã P, huyện T, tỉnh B.
Bị đơn: Anh Phạm Văn H2, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh B.
(Chị H1 có mặt, anh H2 vắng mặt lần thứ 2 không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện,bản tự khai cùng tài liệu chứng cứ đã xuất trình và tại phiên Tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thùy H1 trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn H2 tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 30/9/2009 tại UBND xã P, huyện T, tỉnh B. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống tại gia đình anh H2 ở Thôn Đ, xã P, huyện T, tỉnh B. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống trong việc làm ăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Anh H1 và chị H2 đã sống ly thân từ tháng 6/2021 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể tiếp tục chung sống với anh H1 được nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H2.
Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Phạm Thùy L, sinh ngày 19/4/2010 và Phạm Tuấn A, sinh ngày 02/6/2017. Ly hôn, chị nhận trực tiếp nuôi con Phạm Tuấn A và anh H nuôi con Phạm Thùy L. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung: Vợ chồng chị không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
* Tại bản tự khai ngày 27/12/2021 anh Phạm Văn H2 trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận việc đăng ký kết hôn như chị H1 trình bày là đúng. Trong quá trình chung sống vợ chồng không phát sinh mâu thuẫn gì lớn, chỉ có đôi lúc vợ chồng cãi nhau do mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu. Sau đó chị H1 có lời lẽ không đúng với anh, bên cạnh đó anh còn bắt gặp có người đàn ông khác nhắn tin cho chị H1 dẫn đến 2 vợ chồng cãi nhau. Anh và chị H1 đã sống ly thân gần 4 tháng nay, chị H1 đã chuyển đến nhà bố mẹ đẻ để sinh sống. Anh đã nhiều lần thuyết phục chị H1 về chung sống nhưng chị Hương không đồng ý. Nay chị H1 xin ly hôn anh, quan điểm của anh là muốn vợ chồng đoàn tụ vợ chồng.
Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh có hai con chung như chị H1 đã trình bày. Nếu trường hợp ly hôn, anh đồng ý giao con theo nguyện vọng của chị H1, mỗi người nuôi một con, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng anh không có nợ chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung.
* Tại biên bản xác minh ngày 18/3/2022, đại diện UBND xã P cung cấp: Chị H1 và anh H2 tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T, tỉnh B ngày 30/9/2009. Trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn gì thì địa phương không nắm được tuy nhiên hiện cả hai đã sống ly thân. Chị H1 đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn L sinh sống.
* Tại biên bản xác minh ngày 18/03/2022, ông Phạm Văn S – bố đẻ anh Hưng cung cấp: Chị H1 và anh H1 tự nguyện tìm hiểu, được sự đồng ý của hai bên gia đình đã tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn vào năm 2009. Sau khi kết hôn, anh chị sinh sống tại gia đình ông. Trong quá trình chung sống anh chị cũng không phát sinh mâu thuẫn gì lớn nhưng chị H1 đã chuyển về thôn L sinh sống. Hai bên gia đình đã hòa giải cho hai vợ chồng nhưng chị H1 vẫn cương quyết xin ly hôn. Khoảng 1 tháng nay anh H2 đã vào vào miền Nam làm việc nhưng ông không biết được địa chỉ cụ thể. Anh H1 vẫn thường xuyên liên lạc với ông qua điện thoại. Ông đã nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và cam kết giao lại cho anh H2.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy phát biểu quan điểm tại phiên tòa:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không có mặt theo triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 238, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: xử cho chị Nguyễn Thùy H1 được ly hôn anh Phạm Văn H2; Về quan hệ con chung giao cho chị H1 nuôi cháu Phạm Tuấn A và giao cháu Phạm Thùy L cho anh H2 trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Chị H1 phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và các bên được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Phạm Văn H2 đang cư trú tại Thôn H, xã P, huyện T, tỉnh B. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy. Anh H2 được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX xét xử vắng mặt anh Hưng.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thùy H1 và anh Phạm Văn H2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T vào ngày 30/9/2009. Tại thời điểm kết hôn, hai bên đủ điều kiện kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn dẫn đến việc cả hai đã sống ly thân. Anh H2 mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nhưng và đề nghị Tòa án hòa giải cho hai vợ chồng nhưng anh không có mặt theo Thông báo của Tòa án, chứng tỏ anh H2 không thiết tha gì việc đoàn tụ với chị H1. Tại phiên tòa, chị H1 vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn. Từ những căn cứ trên, HĐXX thấy rằng tình trạng hôn nhân của chị H1 và anh H2 đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị H1 được ly hôn anh H2 là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ con chung: Anh H2 và chị H2 có 02 con chung là Phạm Thùy L, sinh ngày 19/4/2010 và Phạm Tuấn A, sinh ngày 02/6/2017. Chị H1 có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Tuấn A, giao cháu L cho anh H2 trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H đồng ý theo nguyện vọng của chị H2. Vì vậy, cần giao cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng nuôi cháu Tuấn A và giao cho anh H2 trực tiếp nuôi dưỡng cháu L là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Anh H2 và chị H1 đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Chị H1 phải chịu án phí tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Chị H1 và anh H2 có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tại Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thùy H1 ly hôn anh Phạm Văn H2.
2. Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn H2 trực tiếp nuôi con Phạm Thùy L, sinh ngày 19/4/2010 và giao cho chị Nguyễn Thùy H nuôi con Phạm Tuấn A, sinh ngày 02/6/2017. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.
Chị Nguyễn Thùy H1 và anh Phạm Văn H2 có quyền thăm nom, chăm sóc con chung và quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, mức cấp dưỡng nuôi con chung khi cần thiết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thùy H1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H1 đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004035 ngày 24/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy sang thi hành án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thùy H1 được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn H2 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 23/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 23/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về