TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 20/2024/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Vào hồi 8 giờ 00 phút, ngày 31 tháng 01 năm 2024 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2023/TLST – HNGĐ, ngày 09 tháng 11 năm 2023, về việc “ Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2023 và Quyết hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mai Thị H – Sinh năm 1989; “Vắng mặt”.
- Bị đơn: Anh Trần Hải Đ – Sinh năm 1984 “Vắng mặt”.
Các đương sự cùng địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn X, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Mai Thị H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Mai Thị H và anh Trần Hải Đ có đăng ký hết hôn ngày 25/11/2009 tại Ủy ban nhân dân thị trấn X, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Quá trình sống chung vợ chồng thường xảy ra mâu thuẩn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã ly thân 7 năm. Nay, nguyên đơn cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và xin được ly hôn với anh Trần Hải Đ.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, sau khi ly thân nguyên đơn trực tiếp nuôi Trần Mạnh H, bị đơn trực tiếp nuôi Trần Mạnh C, nguyện vọng của nguyên đơn tiếp tục được nuôi dưỡng con chung Trần Mạnh H, sinh ngày 01/11/2016 và bị đơn tiếp tục nuôi dưỡng con chung Trần Mạnh C, sinh ngày 26/7/2010 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và các biên bản hòa giải tại tòa án bị đơn anh Trần Hải Đ trình bày:
Về quan hệ tình cảm: Đồng ý như ý kiến của nguyên đơn về thời gian kết hôn, thời gian và nguyên nhân mâu thuẫn, ngoài ra bản thân bị đơn mặc dù biết cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nhưng vẫn mong muốn cùng vợ chung sống, dù vợ chồng đã tự hòa giải nhiều lần nhưng không cải thiện được, hiện bị đơn không có giải pháp để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, tuy nhiên bị đơn muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con chung, không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Nay trường hợp vợ chồng phải ly hôn, bị đơn có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Mạnh C (con chung Trần Mạnh C trên 07 tuổi có nguyện vọng ở với bố) và nguyên đơn trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung Trần Mạnh H (con chung Trần Mạnh H trên 07 tuổi có nguyện vọng ở với mẹ). Hai bên nguyên đơn và bị đơn không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã nhận được thông báo tố tụng của Tòa án hợp lệ, do bị đơn không đồng ý ly hôn nên Tòa án đã tổ chức hòa giải nhiều lần, đã đưa ra giải pháp cũng như ấn định thời gian cho các bên tự hòa giải, nhưng nguyên đơn nhất quyết ly hôn, bị đơn có nguyện vọng được đoàn tụ nhưng hiện tại không có giải pháp. Tại phiên tòa ngày 16/01/2024 và ngày 31/01/2024 bị đơn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án thông báo thời gian xét xử hợp lệ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu ly hôn của chị Mai Thị H thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt sau 2 lần mở phiên tòa không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt bị đơn là phù hợp theo điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thì hôn nhân của các đương sự hoàn toàn hợp pháp. Theo nguyên đơn sau khi kết hôn vợ chồng đã sống chung hạnh phúc, nhưng tính tình không thể hòa hợp. Bị đơn thừa nhận quan hệ vợ chồng mâu thuẫn, dù đã hòa giải nhiều lần nhưng không tiến triển do nguyên đơn không hợp tác, hiện không có cách gì níu kéo tình cảm vợ chồng. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải nhiều lần, gia hạn thêm thời gian để các đương sự tự hàn gắn tình cảm, nhưng nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, bị đơn không đồng ý ly hôn.
Hội đồng xét xử nhận thấy, dù đã được hòa giải nhiều lần nhưng tình trạng hôn nhân không thay đổi, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Mai Thị H được ly hôn với anh Trần Hải Đ.
[3]. Về con chung: Từ sau khi ly thân, nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng Trần Mạnh H, bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Mạnh C. Tuy các con không được chung sống đầy đủ cả bố lẫn mẹ nhưng việc nuôi con các đương sự không ai vi phạm nghĩa vụ, hiện con chung được nuôi dưỡng và phát triển bình thường, vì vậy cần giữ nguyên tình trạng nuôi dưỡng con chung hiện tại của các đương sự, tránh sự xáo trộn ảnh hưởng đến việc sinh sống, học tập của các con đã ổn định. Xét nguyện vọng của con chung trên 07 tuổi thấy, cần tiếp tục giao con chung Trần Mạnh H cho nguyên đơn và Trần Mạnh C cho bị đơn nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, các bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau là phù hợp.
Trường hợp có căn cứ chứng minh một trong các bên đương sự vi phạm quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng con chung, bên kia có quyền yêu cầu thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật.
[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, HĐXX miễn xét.
[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 48, khoản 4 Điều 147, Điều 238, điểm b khoản 2 Điều 277, điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 70, 58, khoản 1, khoản 2 Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mai Thị H được ly hôn với anh Trần Hải Đ.
[2]. Về con chung: Giao con chung Trần Mạnh H, sinh ngày 01/11/2016 cho chị Mai Thị H và giao con chung Trần Mạnh C, sinh ngày 26/7/2010 cho anh Trần Hải Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau và có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được phép cản trở.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu Tòa án thay đổi nếu người trực tiếp nuôi con không đủ điều kiện nuôi. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
[3]. Về án phí: Chị Mai Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí ly hôn đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) theo biên lai số 0011962 ngày 08/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 20/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 20/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về