TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI - TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 15 tháng 06 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 28/2021/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 02 năm 2021 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 04 năm 2021; Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử, ngày 24/05/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 03/06/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1979 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Thế K, sinh năm: 1969 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Vắng mặt lần 2 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 22/01/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Thế K đăng ký kết hôn năm 1999 tại UBND xã Liên Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Việc đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện. Anh chị chung sống với nhau đến cuối năm 2000 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do tính tình, quan điểm sống không hợp nhau nên thường xuyên cãi chửi nhau, anh K cũng đã nhiều lần đánh đập chị. Do con còn nhỏ nên chị cũng cố gắng hàn gắn tình cảm, khắc phục mâu thuẫn vợ chồng nhưng không được. Cuộc sống chung của anh chị đã không còn hạnh phúc trong một khoảng thời gian dài, giữa năm 2020 anh chị đã sống ly thân. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống gia đình thực tế không tồn tại. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thế K.
- Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Thế K có 02 con chung là Nguyễn Thị Trang, sinh ngày 15/03/1998 và Nguyễn Ngọc Trâm, sinh ngày 29/07/2006. Con chung Nguyễn Thị Trang đã trưởng thành, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng. Con chung Nguyễn Ngọc Trâm hiện đang ở với anh K và nguyện vọng của cháu Trâm là muốn ở cùng với bố nên chị để cho anh K nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai ngày 18/03/2021 bị đơn anh Nguyễn Thế K có lời khai thể hiện việc anh và chị Trần Thị H chung sống và đăng ký kết hôn như chị H trình bày là đúng. Cuộc sống chung của anh chị diễn ra bình thường cho đến năm 2006 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh chị không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã nhau. Giữa năm 2020 chị H đã dọn ra ngoài ở và anh chị sống ly thân từ thời điểm đó. Tuy nhiên, anh vẫn còn yêu thương vợ con nên mong muốn chị H về đoàn tụ gia đình cùng nhau nuôi dạy con cái và không đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị H. Về con chung, tài sản chung và khoản nợ chung vợ chồng: anh đồng ý với quan điểm của chị Hậu.
Tòa án đã tống đạt cho anh Nguyễn Thế K Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh K vắng mặt các buổi làm việc tại Tòa án, vì vậy không có nội dung về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Các tài liệu chứng cứ chị Trần Thị H đã nộp kèm theo Đơn khởi kiện gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (01 bản chính); Sổ hộ khẩu (01 bản sao); Giấy chứng minh nhân dân (01bản sao); Giấy khai sinh (02 bản sao).
Các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án: Bản tự khai của nguyên đơn chị Trần Thị H; Biên bản lấy lời khai của bị đơn anh Nguyễn Thế K; Biên bản lấy lời khai của con chung; Biên bản làm việc xác nhận việc bị đơn anh Nguyễn Thế K vắng mặt không có lý do tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên bản xác minh tại chính quyền địa phương và chi hội phụ nữ khu 3, phường Trần Phú, thành phố Móng Cái.
Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách các đương sự tham gia tố tụng. Việc lập hồ sơ, thu thập chứng cứ của thẩm phán đúng theo quy định. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã đảm bảo đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Các đương sự đều được đảm bảo quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Hậu đối với anh Nguyễn Thế Kiều. Về con chung: con chung là Nguyễn Thị Trang, sinh ngày 15/03/1998 đã thành niên nên không đề cập giải quyết. Giao con chung Nguyễn Ngọc Trâm, sinh ngày 29/07/2006 cho anh Nguyễn Thế Kiều nuôi dưỡng giáo dục đến tuổi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con cả hai đương sự đều không yêu cầu nên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: hai đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Yêu cầu khởi kiện tranh chấp hôn nhân và gia đình của chị Trần Thị Hậu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình chị Trần Thị Hậu có quyền làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh Nguyễn Thế Kiều.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không tiến hành hòa giải được do bị đơn đã được giao Thông báo nhưng vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án không tiến hành hòa giải phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Thế Kiều đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm 02 lần, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị Trần Thị Hậu vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, nội dung tự khai và lời khai của các đương sự, nội dung xác minh và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hậu và anh Nguyễn Thế Kiều đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào năm 1999 tại UBND xã UBND xã Liên Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cả hai không hợp nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, tình trạng này diễn ra trong khoảng thời gian dài nhưng cả hai không có biện pháp khắc phục, dẫn đến vợ chồng đã sống ly thân từ giữa năm 2020. Quá trình giải quyết tại Tòa án, bị đơn anh Nguyễn Thế Kiều có quan điểm không đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Hậu tuy nhiên anh Kiều không tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa để thể hiện nguyện vọng, mong muốn vợ chồng về đoàn tụ. Ngoài ra, anh Kiều còn có nội dung trình bày vợ chồng anh, chị đã có mâu thuẫn từ năm 2006 do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã nhau và anh chị cũng sống ly thân từ giữa năm 2020. Tại Biên bản xác minh ngày 23/04/2021, chính quyền địa phương và chi hội phụ nữ khu 3, phường Trần Phú, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh cung cấp: chị Hậu và anh Kiều có mâu thuẫn hơn chục năm nay, thường xuyên cãi vã nhau và anh Kiều đã nhiều lần có hành vi đánh chị Hậu, hiện nay chị Hậu và anh Kiều đã sống ly thân. Hội đồng xét xử thấy cuộc sống chung vợ chồng chị Trần Thị Hậu và anh Nguyễn Thế Kiều không có hạnh phúc, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, thực tế vợ chồng không còn có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Hậu.
- Về con chung: Con chung Nguyễn Thị Trang, sinh ngày 15/03/1998 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đề cập việc nuôi dưỡng. Con chung Nguyễn Ngọc Trâm, sinh ngày 29/07/2006 hiện đang ở cùng anh Kiều và có nguyện vọng được ở cùng với bố nên giao cho anh Nguyễn Thế Kiều nuôi dưỡng giáo dục đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Việc cấp dưỡng nuôi con cả hai đương sự đều không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: Chị Hậu và anh Kiều đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[3] Về án phí: Chị Trần Thị Hậu phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Điều 26 Luật thi hành án dân sự;
Tuyên xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Kiều.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hậu được ly hôn anh Nguyễn Thế 2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Trâm, sinh ngày 29/07/2006 cho anh Nguyễn Thế Kiều trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chị Trần Thị Hậu có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được phép cản trở chị Hậu thực hiện quyền này. Việc cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con chung Nguyễn Thị Trang, sinh ngày 15/03/1998 đã thành niên nên không đề cập giải quyết.
3. Về án phí: Chị Trần Thị Hậu phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị Hậu đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000561 ngày 22/02/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Móng Cái. Chị Hậu đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 14/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 14/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về