Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 22 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2023/TLST–HNGĐ ngày 04/10/2023 về việc Tranh chấp hôn nhân gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/12/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-HNGĐ ngày 10/01/2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1984; HKTT: thôn Y, xã T, huyện Y, tỉnh H; Tạm trú: xóm Đ, xã H, huyện T, thành phố H. (Vắng mặt, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt) Bị đơn: Anh Vũ Minh Q, sinh năm 1980; trú tại: thôn Y, xã T, huyện Y, tỉnh H. (Vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cháu Vũ Hoàng Gia H1, sinh ngày 11/11/2009; Tạm trú: xóm Đ, xã H, huyện T, thành phố H. (vắng mặt) Người làm chứng:

- Ông Vũ Minh T, sinh năm 1950; trú tại: thôn Y, xã T, huyện Y, tỉnh H. (vắng mặt)

- Ông Hoàng Văn Nh, sinh năm 1952, trú tại: thôn A, xã B, huyện T, tỉnh T. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại các biên bản lấy lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: chị và anh Vũ Minh Q tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T ngày 03/4/2008. Sau khi kết hôn, chị H chung sống cùng anh Q tại thôn Y, xã T, huyện Y, tỉnh H. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khi tôi sinh con năm 2009 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tôi phát hiện anh Q bị nghiện ma túy. Chị và hai bên bố mẹ đã khuyên bảo, phân tích nhiều lần nhưng anh Q không từ bỏ được ma túy, tiêu tán kinh tế của gia đình. Ngoài ra anh Q không có trách nhiệm gì với vợ con, một mình chị phải nuôi con nhỏ và đôi lúc phải chăm sóc cho anh Q. Vợ chồng không thể nói chuyện được với nhau, không thấu hiểu và tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Năm 2022 anh Q tham gia chơi cờ bạc, cá độ, thua lỗ thường xuyên, bao nhiêu tài sản của vợ chồng tích cóp được đều phải mang đi trả nợ cho anh Q. Hiện nay hai người sống ly thân. Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh Q, cuộc sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, đề nghị tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Vũ Minh Q.

Về con chung: chị và anh Q có 01 con chung là cháu Vũ Hoàng Gia H1, sinh ngày 11/11/2009. Ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng cháu H1 đến khi cháu thành niên, không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: không có, không đề nghị tòa án giải quyết các vấn đề này.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ và nhiều lần đến gia đình anh Q làm việc, tuy nhiên anh Q đi làm vắng nhà. Ông Vũ Minh T là bố đẻ của anh Q cung cấp số điện thoại của anh Q cho Tòa án. Trước sự chứng kiến của ông Vũ Minh T và đại diện chính quyền địa phương, Tòa án đã liên lạc với anh Q theo thông tin cung cấp của ông T, anh Q cung cấp như sau: anh thống nhất với trình bày của chị H về việc kết hôn, quá trình chung sống, con chung. Trong cuộc sống vợ chồng, anh và chị H có nhiều mâu thuẫn không thể hòa giải nên anh đề nghị tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị H. Về con chung anh nhất trí giao con chung là cháu Vũ Hoàng Gia H1 cho chị H nuôi dưỡng. Về tài sản, công sức, công nợ chung của vợ chồng đều không có và không đề nghị tòa án giải quyết. Do điều kiện đi làm lái xe, thời gian không cố định nên anh Q đề nghị tòa án giải quyết vắng mặt anh tại các giai đoạn giải quyết vụ việc. Nếu Tòa án giao các tài liệu gì cho anh thì đề nghị giao cho bố anh là ông Vũ Minh T để ông T giao lại cho anh.

Ông Vũ Minh T là bố đẻ anh Vũ Minh Q trình bày: anh Q và chị H kết hôn tại UBND xã T, có làm đám cưới theo phong tục địa phương, sau đó vợ chồng chung sống cùng gia đình ông tại thôn Y, xã T, sau đó thì ông cho vợ chồng ra ở riêng trên căn nhà khác nhưng vẫn cùng trên thửa đất của gia đình ông. Trong cuộc sống hàng ngày, thỉnh thoảng ông vẫn thấy vợ chồng có mâu thuẫn to tiếng. Chị H có thông báo với ông về việc nộp đơn xin ly hôn với anh Q tại Tòa án. Về việc này ông đề nghị tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và ông không có yêu cầu hay đề nghị gì.

Ông Hoàng Văn Nh là bố đẻ của chị H trình bày: anh Q và chị H kết hôn tự nguyện, sau kết hôn chị H chung sống cùng anh Q tại gia đình anh Q. Ông có được chị H kể về việc vợ chồng có mâu thuẫn do anh Q chơi bời cờ bạc và sử dụng ma túy. Nay chị H làm thủ tục ly hôn với anh Q tại Tòa án thì ông đề nghị tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và ông không có yêu cầu hay đề nghị gì.

Cháu Vũ Hoàng Gia H1 trình bày: hiện nay cháu đang ở với mẹ và có nơi ở, học tập ổn định. Nếu tòa án giải quyết cho anh Q và chị H ly hôn thì cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với chị H.

UBND xã T cung cấp: anh Q và chị H thực hiện việc kết hôn tại UBND xã theo đúng các trình tự thủ tục do pháp luật quy định.

Công an xã T cung cấp: anh Q sinh sống trên địa bàn xã T chưa có vi phạm pháp luật, không thuộc diện quản lý đối tượng sử sụng chất ma túy.

Tại phiên tòa:

Chị Hoàng Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán lập hồ sơ vụ án đúng trình tự thủ tục. Việc lấy lời khai của đương sự và thu thập chứng cứ đảm bảo tính khách quan, hợp pháp. Thời hạn chuẩn bị xét xử, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu và việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng theo Điều 48; 195; 196; 203; 220 Bộ Luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo các Điều 70; 71; 72 Bộ Luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử (HĐXX) và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân dân sự, nên Viện kiểm sát không có kiến nghị gì.

Về nội dung: Hôn nhân của anh Q và chị H là hợp pháp, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, các đương sự đều xác định tình cảm không còn, nhất trí ly hôn. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu chị H, xử cho anh Q và chị H ly hôn; giao cháu Vũ Hoàng Gia H1 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng; các vấn đề về tài sản, công sức, công nợ do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét..

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Anh Vũ Minh Q và chị Hoàng Thị H cùng đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại xã T, huyện Y, tỉnh H. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Y.

Tại phiên tòa, anh Q đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 và Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Anh Vũ Minh Q và chị Hoàng Thị H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Y. Do đó hôn nhân của anh Q và chị H là hợp pháp. Anh Q và chị H cùng xác định vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không quan tâm đến nhau, hiện tại đang sống ly thân, không liên quan nhau về kinh tế hay bất cứ vấn đề gì và cùng nhất trí ly hôn. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đã trầm trọng không thể hàn gắn để chung sống cùng nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, giải quyết cho anh Q và chị H ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

Về con chung: chị H và anh Q có 01 con chung là cháu Vũ Hoàng Gia H1, sinh ngày 11/11/2009. Cháu H1 có nguyện vọng muốn ở cùng với chị H, chị H có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng cháu H1, không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con, chị H có công việc và thu nhập ổn định, anh Q cũng nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự, giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu H1 đến khi cháu thành niên, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H, nhưng được quyền thăm và chăm sóc con chung không ai được ngăn cản là phù hợp với các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Anh Q và chị H đều không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ: khoản 4 Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 8, 9, 51, 56, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 73 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2015. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H ly hôn với anh Vũ Minh Q.

3/ Về con chung: Giao cho chị Hoàng Thị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu Vũ Hoàng Gia H1, sinh ngày 11/11/2009 đến khi thành niên. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị H nhưng được quyền thăm, chăm sóc con chung, không ai được cản trở. Chị H là đại diện theo pháp luật của cháu H1. Bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người đó. Vì lợi ích của con chung, chị H, anh Q, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

4/ Về án phí: chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn. Đối trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tại biên lai số 9571 ngày 04/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, chị H đã nộp xong án phí sơ thẩm.

5/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 06/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mỹ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về