Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 60/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2022, về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 268/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022 và theo quyết định hoãn phiên tòa số 260/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 14 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Cẩm Nh, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Số nhà 59, đường Ông C, ấp 01, xã Mỹ T, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Dương Minh T, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Số 154, đường Phùng Khắc Kh, tổ 44, khóm Mỹ Th, Phường Mỹ Ph, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

(Chị Nguyễn Thị Cẩm Nh có mặt, anh Dương Minh T vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm Nh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nh và anh T kết hôn với nhau vào năm năm 1995, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tr, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 07/3/2005.

Sau khi kết hôn, chị Nh và anh T sống ở nhà ba mẹ ruột của chị Nh. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối tháng 10/2019 thì chị Nh phát hiện anh T chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác. Đến khoảng tháng 12/2019 thì anh T bỏ về nhà cha mẹ ruột sống. Từ đó, chị Nh và anh T không còn chung sống với nhau cho đến nay. Trong thời gian không còn chung sống với nhau thì cả hai đều không có tìm cách hàn gắn tình cảm.

Nay chị Nh nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nh yêu cầu ly hôn với anh Dương Minh T.

Chị Nh không yêu cầu xử lý hình sự đối với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Dương Thị Cẩm T, sinh ngày 02/2/1997 và Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006.

Đối với con chung Dương Thị Cẩm T đã trưởng thành nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đối với con chung Dương Ngọc Cẩm T hiện nay đang sống với chị N.

Sau khi ly hôn, chị Nh yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Dương Minh T Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh T không có văn bản trình bày ý kiến về nội dung vụ án, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì liên quan đến vụ án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con.

[2] Bị đơn anh Dương Minh T có địa chỉ tại số 154, đường Phùng Khắc Kh, tổ 44, khóm Mỹ Th, Phường Mỹ Ph, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Dương Minh T vắng mặt, không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì liên quan đến vụ án và không trình bày ý kiến của anh về quan hệ hôn nhân. Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho anh Dương Minh T nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn Dương Minh T là đúng theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[3.1] Xét quan hệ hôn nhân của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh và anh Dương Minh T được xác lập năm 2005, hôn nhân của anh chị là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tr, thành phố Cao Lãnh vào ngày 07/3/2005 nên quan hệ hôn nhân của chị Nh và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo lời trình bày của chị Nh thì nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do anh T có người phụ nữ khác nên không quan tâm chăm sóc đến gia đình, chị Nh và anh T không còn chung sống với nhau từ tháng 12/2019 cho đến nay. Trong thời gian xa nhau, anh T cũng không tìm cách hàn gắn tình cảm, cả hai đều không quan tâm đến nhau nên dẫn đến cuộc sống hôn nhân giữa chị Nh và anh T không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nh là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung: Chị Nh và anh T có 02 con chung tên Dương Thị Cẩm T, sinh ngày 02/2/1997 và Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006.

Đối với con chung Dương Thị Cẩm T đã trưởng thành nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đối với con chung Dương Ngọc Cẩm T hiện nay đang sống với chị N.

Sau khi ly hôn, chị Nh yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh T vắng mặt và không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì liên quan đến vụ án và không trình bày ý kiến của anh về con chung. Đồng thời, cháu Dương Ngọc Cẩm T là con gái và từ trước đến nay đang sống chung với mẹ, việc sống với mẹ sẽ phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của cháu T. Mặt khác, theo nguyện vọng của cháu T có nguyện vọng được sống với mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất lẫn tinh thần cho trẻ nên việc giao con chung Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006 cho chị Nh tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị Nh.

[3.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nh không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, anh T không có văn bản ý kiến và cũng không có mặt tại phiên tòa để trình bày ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3.4] Về tài sản chung: Chị Nh trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3.5] Về nợ chung: Chị Nh trình bày không có nợ ai và cũng không có ai nợ nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nh phải chịu 300.000 đồng án phí về hôn nhân và gia đình. Anh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh.

Chị Nguyễn Thị Cẩm Nh được ly hôn với anh Dương Văn T.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Cẩm Nh. Chị Nh được tiếp tục nuôi con chung tên Dương Ngọc Cẩm T, sinh ngày 05/01/2006.

Đối với con chung Dương Thị Cẩm T, sinh ngày 02/2/1997 đã trưởng thành nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nh không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Cẩm Nh phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị Nh đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011344 ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh. Chị Nguyễn Thị Cẩm Nh đã nộp xong tiền án phí.

Anh Dương Minh T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

Chị Nguyễn Thị Cẩm Nh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Dương Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, nuôi con số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về