Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 74/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 551/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2021 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2022/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Mộng Tr, sinh năm 1981; địa chỉ: số nhà 340, ấp BT1, thị trấn L, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp; có mặt.

- Bị đơn: Ông Hà Thanh H, sinh năm 1978; địa chỉ: ấp BT2, xã HA, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Võ Thị Mộng Tr trình bày, giữa bà và ông Hà Thanh H do tự quen biết, tiến tới hôn nhân năm 2002, có thực hiện đăng ký kết hôn vào ngày 19/9/2002 tại xã Xã HA, huyện CM. Trong thời gian chung sống cả hai có nhiều bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, ông H thường uống rượu, bia không tu chí làm ăn và đánh đập bà Tr; khoảng từ năm 2019 giữa bà và ông H đã tự sống ly thân, mặc dù trước đó bà đã tạo nhiều cơ hội cho ông H, nhưng ông H không thay đổi. Nay bà đề nghị ly hôn với ông Hà Thanh H.

- Về con chung: Giữa bà và ông H có 02 con chung tên Hà Thiên Bảo, sinh ngày 19/4/2002 và Hà Thiên Phúc, sinh ngày 15/11/2015. Sau khi ly hôn bà đề nghị tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hà Thiên Phúc, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng; còn cháu Hà Thiên Bảo đã thành niên, nên không đề cấp giải quyết.

Cháu Hà Thiên Phúc đang sống với bà Tr, được đi học và bà có công việc ổn định làm nghề neil và gội đầu, thu nhập từ 150.000đồng đến 200.000đồng/ngày.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Bà Võ Thị Mộng Tr trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình. Tại phiên tòa bà xác định, mâu thuẫn vợ chồng thời gian qua chủ yếu là trong sinh hoạt gia đình, giữa bà và ông Hòa không có tiếng nói chung, vào năm 2021 bà cũng đã có đơn yêu cầu ly hôn, nhưng đã rút yêu cầu để ông H có sự thay đổi, nhưng tới nay ông H vẫn vậy, nên bà đề nghị ly hôn với ông H do không còn tình cảm.

- Ông Hà Thanh H đã được Tòa án cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, nhưng tại phiên tòa vẫn vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến, ông H trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng không cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh và có ý kiến phản hồi về yêu cầu ly hôn của bà Tr đối với ông, cũng như yêu cầu nuôi con chung của bà Tr.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Hà Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng ông H vẫn vắng mặt, nên căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông H là đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: bà Võ Thị Mông Tr và ông Hà Thanh H tự tìm hiểu, đi đến kết hôn và có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừ nhận và bảo vệ; sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, ông H không quan tâm có hành vi bạo lực gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ giữa năm 2019 đến nay.

Xét thấy, từ khi bà Tr gửi đơn khởi kiện ông H không có ý kiến phản hồi, không tạo điều kiện để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng; mặt khác tháng 3/2021, bà Tr đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn và rút đơn khởi kiện để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, nhưng không thành, bà Tr xác định không còn tình cảm với ông H, nếu tiếp tục sống chung sẽ không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc bà Tr yêu cầu ly hôn với ông H là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, nghĩ nên chấp nhận.

Về con chung: giữa bà Tr và ông H có 02 con chung tên Hà Thiên Bảo, sinh ngày 19/4/2002 và Hà Thiên Phúc, sinh ngày 15/11/2015, bà Tr có yêu cầu nuôi cháu Hà Thiên Phúc, từ khi ly thân đến nay cháu Phúc sống với bà Tr phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, ông H không có ý kiến nên cần ổn định cho cuộc sống của con, nên để bà Tr tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Phúc, về cấp dưỡng nuôi con do bà Tr không yêu cầu nên không đề cập đến. Cháu Thiên Bảo đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: vợ chồng tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: không có nên không đề cập đến.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bà Võ Thị Mộng Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông H, ông H cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Mộng Tr và ông Hà Thanh H kết hôn do tự tìm hiểu đi đến kết hôn, không bị ép buộc, H toàn tự nguyện, việc bà Tr và ông H kết hôn là đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà Tr khẳng định không còn tình cảm với ông H, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc ông H không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên uống rượu, bia, không tu trí làm ăn, vào tháng 03/2021 bà Tr cũng đã có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con, nhưng bà đã rút đơn yêu cầu, để tạo điều kiện vợ chồng đoàn tụ, hàn gắn tình cảm, nhưng đến nay cả hai vẫn có những mâu thuẫn, bà xác định không còn tình cảm với ông H. Do vậy, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa bà Tr và ông H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; nên việc bà Tr yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tr.

[2.2] Về quan hệ con chung: bà Tr xác định, giữa bà và ông H có 02 con chung tên Hà Thiên Bảo, sinh ngày 19/4/2002 và Hà Thiên Phúc, sinh ngày 15/11/2015, hiện nay cháu Bảo đã thành niên, có khả năng lao động nên không đề cập giải quyết; đối với cháu Thiên Phúc hiện nay đang sống cùng bà Tr, được đi học và có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường, bà Tr có yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Thiên Phúc, để ổn định cuộc sống cho cháu Thiên Phúc, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần; nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Thiên Phúc cho bà Tr tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Tr không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tr, ông H xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Võ Thị Mộng Tr phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông H không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Võ Thị Mộng Tr đối với bị đơn ông Hà Thanh H;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Mộng Tr được ly hôn với ông Hà Thanh H. Giấy chứng nhận kết hôn số 46/2002, quyển số 01/2002 ngày 19/9/2002 do Ủy ban nhân dân xã Xã HA, huyện CM, tỉnh An Giang cấp cho bà Võ Thị Mộng Tr và ông Hà Thanh H, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Võ Thị Mộng Tr được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Hà Thiên Phúc, sinh ngày 15/11/2015. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung; đối với con chung Hà Thiên Bảo, sinh ngày 19/4/2002 đã thành niên, có khả năng lao động nên không đề cập giải quyết.

Bà Võ Thị Mộng Tr cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Hà Thanh H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Võ Thị Mộng Tr phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009830 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 10 tháng 12 năm 2021; bà Võ Thị Mộng Tr đã nộp đủ án phí.

Ông Hà Thanh H không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Võ Thị Mộng Tr có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

- Riêng ông Hà Thanh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con số 74/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về