TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 73/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 12/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/ 20 2 2 /QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 2000; địa chỉ: số 80, ấp MH, xã NM, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ L, sinh năm 1997; địa chỉ: ấp NA, xã NM, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh trình bày, giữa bà Nh và ông L có thời gian tìm hiểu nhau hơn 01 năm, đi đến kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, kết hôn vào năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nhơn Mỹ, sau khi cưới cả hai vợ chồng sống bên nhà chồng hơn 02 tháng, sau đó bà và ông L chuyển về nhà mẹ ruột bà Nh chung sống, nhưng khi về nhà mẹ ruột sống ông L cũng không thay đổi, vẫn thường xuyên cự cãi nhau do anh L chơi bạc xỉu, đá gá, chơi hàng đá, không chăm lo cho bà Nh trong thời gian bà mang thai, cũng như sau khi bà sinh con; sau khi con tròn 01 tháng tuổi, giữa bà và ông L không còn sống chung từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, nên bà đề nghị ly hôn với anh L.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khả A, sinh ngày 05/02/2021, con chung hiện đang sống chung với bà Nh; hiên nay bà Nh đi làm, có thu nhập ổn định, nên sau ly hôn bà đề nghị nuôi con, không yêu cầu ông L phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có tài sản chung.
- Về nợ chung: Không có nợ chung. Tại phiên tòa:
- Bà Nguyễn Thị Nh trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình; bà xác định về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Ông Nguyễn Vũ L vắng mặt tại phiên tòa, nên không ghi nhận được ý kiến, quá trình giải quyết vụ án ông L cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ, ý kiến về yêu cầu ly hôn và nuôi con.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa vắng mặt, nên đề nghị căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.
Về việc giải quyết vụ án: Giữa bà Nh và ông L kết hôn, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do không tôn trọng nhau, tính tình không hợp, ông L hay chơi cờ bạc, không quan tâm vợ con, vợ chồng đã sống ly thân đến nay; quá trình giải quyết Tòa án triệu tập hợp lệ ông L, nhưng vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến.
Xét thấy, kể từ khi bà Nh gửi đơn khởi kiện ông L không có ý kiến phản hồi, không tạo điều kiện để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng. Mặt khác bà Nh xác định không còn tình cảm với ông L, nên tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc, nên việc bà Nh yêu cầu ly hôn là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khả A, sinh ngày 05/02/2021, bà Nh có yêu cầu nuôi con, không yêu cầu ông Nguyễn Vũ L cấp dưỡng nuôi con, từ khi ly thân đến nay cháu A sống với bà Nh vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Hơn nữa theo quy định pháp luật con dưới 36 tháng tuổi do mẹ trức tiếp, nuôi dưỡng. Để ổn định cuộc sống cho cháu, nghĩ nên tiếp tục để bà Nh chăm sóc, nuôi dưỡng, do bà Nh không yêu cầu cấp dưỡng nên không đề cập đến.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập đến.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.
[1] Về tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Bà Nguyễn Thị Nh khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông L, cả bà và ông L đều cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ông L đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Nh và ông Nguyễn Vũ L kết hôn do tự tìm hiểu đi đến kết hôn, không bị ép buộc, hoàn toàn tự nguyện, việc bà Nh, ông L kết hôn là đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà Nh khẳng định không còn tình cảm với ông L, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc ông L không chăm lo cho cuộc sống gia đình, ông L đã được Tòa án cấp, tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ông L không có văn bản phản hồi, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh, điều này thể hiện ông L không mong muốn đoàn tụ, không mong muốn hàn gắn tình cảm, để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình, lo cho con. Do vậy, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa bà Nh và ông L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; nên việc bà Nh yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nh.
[2.2] Về quan hệ con chung: bà Nh xác định, giữa bà và ông L có 01 con chung tên Nguyễn Khả A, sinh ngày 05/02/2021, cháu A đang được bà Nh chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định; ông L đến nay không có ý kiến về con chung; hơn nữa cháu A đến nay chưa đủ 36 (ba mươi sáu) tháng tuổi. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu A, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu chA A cho bà Nh tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Nh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nh xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.
[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông L không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh đối với bị đơn ông Nguyễn Vũ L;
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Nh được ly hôn với ông Nguyễn Vũ L. Giấy chứng nhận kết hôn số 67 ngày 13/5/2020 do Ủy ban nhân dân xã NM, huyện CM, tỉnh An Giang cấp cho bà Nguyễn Thị Nh và ông Nguyễn Vũ L, không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Nh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Khả A, sinh ngày 05/02/2021. Ông L không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.
Bà Nguyễn Thị Nh cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.
4. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Nh phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009978 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 05 tháng 01 năm 2022; bà Nguyễn Thị Nh đã nộp đủ án phí.
Ông Nguyễn Vũ L không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị Nh có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Vũ L là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con số 73/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 73/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về