Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 596/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022 /QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H (Huế), sinh năm 1982; địa chỉ: số 24, tổ 1, ấp PH1, KT, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1976; địa chỉ: số 24, tổ 1, ấp PH1, KT, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày, giữa bà H và ông H1 do tự quen biết, tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã VTr, huyện VTh, tỉnh HG; vợ chồng chung sống H phúc đến cuối năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do không tôn trọng nhau, trong thời gian chung sống thường xảy ra bất hòa, thường xuyên mâu thuẫn không thể giải quyết được, cả hai cố gắng hàn gắn tình cảm, nhưng cả hai không thể hàn gắn và tự sống ly thân từ đó đến nay.

Nhận thấy tình cảm không còn nên bà H yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn H1.

+ Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Chí V, sinh ngày 18/9/2008, Nguyễn Thị Thảo D, sinh ngày 24/6/2012. Hiện con chung đang sống chung với hai vợ chồng, sau ly hôn bà H dề nghị nuoi con, không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

- Bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn H1 trình bày, giữ ông và H do tự tìm hiểu, quen biết nhau đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn, trong thời gian chung sống hai vợ chồng thường xuyên có cự cãi nhau, do vợ tôi và tôi không nói chuyện với nhau, thời gian hơn 01 năm nay giữa chúng tôi không nói chuyện với nhau, nguyên nhân là do vợ tôi đi làm, hay đi giao thiệp với người khác, tôi ghen tuông, có lớn tiếng với bà H, nhưng tôi vẫn còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn.

Lý do không đồng ý ly hôn vì các con còn nhỏ, nếu sau này các con lớn, trưởng thành nếu bà H yêu cầu ly hôn, tôi đồng ý ly hôn.

+ Về con chung: Thống nhất con chung có có 02 con chung tên Nguyễn Chí V, sinh ngày 18/9/2008, Nguyễn Thị Thảo D, sinh ngày 24/6/2012, do tôi không đồng ý ly hôn, nên nếu phải ly hôn tôi thống nhất theo ý các con.

+ Về tài sản chung: Cam kết không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Cam kết không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Bà Nguyễn Thị H vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, và không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình, tại phiên tòa bà trình bày, từ trong tết Nguyên đán đến nay, bà đã chuyển hẳn ra ngoài sống, ngoài ra mặc dù trước đó có sống chung nhà, nhưng cả hai cũng sống ly thân, không quan tâm chăm sóc cho nhau.

- Ông Nguyễn Văn H1 công nhận đối với các tài liệu, chứng cứ như Tòa án đã công khai là đúng, nay ông không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến của mình. Tại phiên tòa ông H1 công nhận khoảng 02 năm trước có cờ bạc, nhưng hơn 01 năm nay ông không còn chơi cờ bạc nữa, nay ông vẫn không đồng ý ly hôn.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: - Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn H1, tự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã VTr, huyện VTh, tỉnh HG ngày 10/02/2011, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Vợ chồng chung sống H phúc đến cuối năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không tôn trọng nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi, nên ly thân đến nay. Nay, yêu cầu ly hôn với ông H1.

Phía ông H1 không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, bà H và ông H1 xảy ra mâu thuẫn từ năm 2020, cả hai đã hàn gắn nhưng không được và bà H xác định không còn tình cảm với ông H1 và đã ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Từ đó cho thấy mâu thuẫn của vợ chồng trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông H1.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Chí V, sinh ngày 18/9/2008, Nguyễn Thị Thảo D, sinh ngày 24/6/2012. Bà H yêu cầu được nuôi 02 con, không yêu cầu cấp dưỡng.

Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hoặc chồng chăm sóc nuôi dưỡng, cần xem xét đến nguyện vọng và điều kiện phát triển của con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ghi nhận ý kiến của cháu V, cháu D, cả hai cháu đều có nguyện vọng sống chung với bà H và ông H1 cũng thống nhất theo nguyện vọng của các cháu. Do đó, giao cháu V, cháu D cho bà H chăm sóc nuôi dưỡng. Do bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn H1, cả bà và ông H1 đều cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn H1 đều thống nhất, cả hai sau thời gian quen biết, nên đã tiến tới hôn nhân vào năm 2003, đến ngày 10/02/2011 mới thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện VTh, tỉnh HG. Bà H, ông H1 đều đủ diều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9, 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (nay là Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).

Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà H khẳng định không còn tình cảm với ông H1, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc giữa hai vợ chồng không đồng nhất về quan điểm sống, ông H1 hay chơi cờ bạc, mặc dù ông H1 không đồng ý ly hôn, nhưng ông cũng thừa nhận trước đây gần 02 năm ông có chơi cờ bạc và chỉ khoảng thời gian 01 năm trở lại đây mới có sự thay đổi, nhưng giữa bà H và ông H1 vẫn thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau thường xuyên, cả hai không tôn trọng nhau trong cuộc sống, bà H với ông H1 cũng có thời gian mâu thuẫn từ cuối năm 2020 đến nay, cả hai không còn tiếng nói chung, cả bà H và ông H1 đều thống nhất từ trong tết Nguyên đán đến nay, bà H đã chuyển hẳn ra ngoài sống; nên bà H đề nghị ly hôn dù ông H1 yêu cầu đoàn tụ. Tuy nhiên bà H không đồng ý đoàn tụ; hơn nữa tại phiên tòa cả hai cũng không có tiếng nói chung về hôn nhân, không hòa giải được những bất đồng.

Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông H1 là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc bà H yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà H và ông H1 đều xác định trong thời gian chung sống giữa ông, bà chỉ có 02 con chung tên Nguyễn Chí V, sinh ngày 18/9/2008, Nguyễn Thị Thảo D, sinh ngày 24/6/2012. Bà H, ông H1 đều thống nhất con chung do bà H nuôi dưỡng, chăm sóc.

Xét thấy, hiện nay cháu V, cháu D đang được bà H chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định; bà H cũng yêu cầu nuôi con, điều này phù hợp với nguyện vọng của các cháu V, D mong muốn được sống với bà H trong trường hợp bà H, ông H1 ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cháu V, D; giúp các cháu V, D phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu V, cháu D cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Ông H1 không phải cấp dưỡng nuôi con, do bà H không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H, ông H1 đều xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Văn H1 không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 và Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Văn H1.

Giấy chứng nhận kết hôn số 06/2011, quyển số 01/2011 ngày 10/02/2011 do Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện VTh, tỉnh HG cấp cho bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn H1, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị H được nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con chung Nguyễn Chí V, sinh ngày 18/9/2008, Nguyễn Thị Thảo D, sinh ngày 24/6/2012, ông H1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Bà Nguyễn Thị H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Văn H1 trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009893 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 20 tháng 12 năm 2021; bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình và gia đình sơ thẩm.

- Ông Nguyễn Văn H1 không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn H1 có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn và nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về