Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn số 47/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 47/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN

Ngày 21 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 756/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2024/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé B, sinh năm 1983; địa chỉ: số B, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt;

- Bị đơn: Ông Ngô Ngọc T, sinh năm 1982; địa chỉ: số I, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé B trình bày, bà với ông Ngô Ngọc T do mai mối, tìm hiểu và tiến tới hôn nhân năm 2020, sống chung không đăng ký kết hôn, quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, ông T không lo cho vợ và gia đình, hiện nay vợ chồng không còn chung sống khoảng 11 tháng. Nhận thấy tình cảm không còn nên bà đề nghị ly hôn.

- Về con chung: không có - Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Bị đơn ông Ngô Ngọc T vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến.

Tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của bà B: căn cước công dân, xác nhận thông tin cư trú và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa:

- Bà Nguyễn Thị Bé B xác định không đăng ký kết hôn, quá trình chung sống giữa bà với ông T không có con chung, tài sản chung cũng như nợ chung trong thời kỳ sống chung như vợ chồng; ông Ngô Ngọc T vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến, do ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé B đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Ngô Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Bé B và ông Ngô Ngọc T, không đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của vợ và chồng theo quy định pháp luật, quá trình chung sống giữa bà B, ông T có mâu thuẫn do ông T không quan tâm chăm lo cho gia đình; quá trình giải quyết vụ án ông cũng không có mặt để có ý hàn gắn hôn nhân, nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận vợ chồng giữa bà B với ông T.

Về con chung: không có, nên không đề cập xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: không có yêu cầu, nên không đề cập xem xét, giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị Bé B khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Ngô Ngọc T, cả bà B và ông T đều cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Bé B trình bày do được mai mối, tự tìm hiểu, khi kết hôn có tổ chức đám cưới năm 2020, nhưng bà với ông T không đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên yêu cầu ly hôn của bà B được giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà B khẳng định quá trình chung sống giữa bà với ông T không có đăng ký kết hôn, cả hai đã có thời gian tự sống ly thân gần 01 năm nay. Do vậy, việc bà B, ông T không thực hiện đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật có nghĩa không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình, nên căn cứ vào khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội Đồng xét xử thống nhất không công nhận vợ chồng giữa bà B với ông T, chấp nhận yêu cầu của bà B.

[2.2] Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Bà B trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xác định trong giai đoạn chung sống nhu vợ chồng với ông T giữa bà với ông T không có con chung, tài sản chung và nợ chung, nên căn cứ Điều 15, 16 Luật Hôn nhân và Gia đình; Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, giải quyết. Trường hợp có phát sinh các quan hệ về con chung, tài sản chung và nợ chung sau khi giải quyết vụ án này, thì các bà B, ông T có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nếu có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc khởi kiện là có căn cứ, hợp pháp.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Bé B phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Ngô Ngọc T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

[4] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé B đối với ông Ngô Ngọc T;

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Bé B với ông Ngô Ngọc T.

- Về quan hệ con chung: không đề cập xem xét, quyết định.

- Về quan hệ tài sản chung: không đề cập xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: không đề cập xem xét, giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Bé B phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhung được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014595 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 16 tháng 11 năm 2023; Bà Nguyễn Thị Bé B đã nộp đủ án phí.

Ông Ngô Ngọc T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn số 47/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về