Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình (chồng ngáo đá, đang đi tù, không đồng ý ly hôn) số 22/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

  Ngày 24/11/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn đã thụ lý số thụ lý số 18/2021/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXX-ST ngày 09/7/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 76/2021/QDDST-HNGĐ ngày 09/8/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1988  Địa chỉ: 46 Nam Ngư, phường C, quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Nhất V, sinh năm 1979  HKTT: 46 Nam Ngư, phường C, quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội.

Hiện ở: Phân trại số 2, Trại giam Thanh Cẩm, huyện Cẩm Thủy, tỉnh  Thanh Hóa.

Tại phiên toà có mặt chị chị H; anh V vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Theo đơn khởi kiện, và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn chị Nguyễn thị H trình bày như sau:

- Tôi và anh Hoàng Nhất V có tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn ngày  11/01/2013 tại Ủy ban nhân dân phường C, quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội. Sau khi kết hôn chúng tôi chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách không hợp nhau, anh V hay ghen và thường   xuyên ngáo đá, tưởng tượng ra tôi ngoại tình. Hiện nay anh V đang chấp Hnh án phạt tù tại trại giam Thanh Cẩm, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh V.

+ Về con chung: chúng tôi có 02 con chung là Hoàng Đặng Quý Thủy, sinh ngày 08/5/2015; Đặng Hoàng Nhật Minh, sinh ngày 30/3/2017. Nếu ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện nay tôi làm nhân viên kinh doanh, thu nhập 8.200.000 đồng/tháng ;

02 con chung đang ở với tôi.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Toà án giải quyết  - Về nợ: chúng tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Tôi đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn anh Hoàng Nhất V trình bày:

- Về thời gian và điều kiện kết hôn như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn chúng tôi sống hạnh phúc đến năm 2017 thì tôi bị bắt vì tội mua bán trái phép chất ma túy và bị xử phạt 7 năm tù. Trong thời gian chấp Hnh án, chị H có vào thăm tôi 02 lần. Hiện nay tôi không nhất trí ly hôn chị H vì tôi còn thương vợ, thương con, thương gia đình, đề nghị tòa án tạm đình chỉ vụ án đợi tôi 24 tháng nữa về để giải quyết.

+ Về con chung: chúng tôi có 02 con chung như chị H đề nghị trên là đúng. Tôi không nhất trí ly hôn nên tôi không đề nghị giải quyết về nuôi con chung.

- Về tài sản chung: không có  - Về nợ chung: không có.

Tôi không nhất trí ly hôn nên tôi không đề nghị xét xử vắng mặt.

Theo xác minh tại nơi anh chị H, anh V sinh sống: Anh V và chị H có đăng ký kết hôn tại UBND phường C, sau khi kết hôn anh, chị chung sống cùng bố mẹ chồng tại số nH số 46 phố Nam Ngư, phường C, quận Hoàn Kiếm, H Nội. Hiện nay anh V đang đi chấp Hnh án không ở địa phương. Về mâu thuẫn của anh V, chị H địa phương không nắm được vì không qua hòa giải cơ sở. Về con chung: anh V, chị H có 02 con chung. Về nợ chung: chúng tôi không nắm được. Chị H Xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà:

Chị H đề nghị được ly hôn và nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh V  cấp dưỡng nuôi con; tài sản, công nợ: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu: Quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã yêu cầu các đương sự cung cấp chứng cứ, tiến Hnh thu thập chứng cứ theo điều 97 BLTTDS, lấy lời khai của đương sự theo điều 98.

Về việc chấp Hnh pháp luật của hội đồng xét xử: Phiên tòa được tiến Hnh đúng thời gian, địa điểm ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên toà, thẩm phán thực hiện đúng qui định tại điều 237, 239, hỏi  đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu theo qui đinh tại điều 243, trình tự xét hỏi được thực hiện đúng theo qui định tại các điều từ 249-253, trình tự phát biểu khi tranh luận thực hiện đúng theo qui định tại điều 260,261 BLTTDS.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của nguyên đơn trong quá trình giải quyết  vụ án kể từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Đề nghị HĐXX: Căn cứ các Điều 33, 56, 59, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 21, 28, 35, 39, 147 BLTTDS 2015; Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H với anh Hoàng Nhất V. Giao hai con chung cho chị H nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN 

[1] Về quan hệ pháp luật: Ngày 11/01/2013 chị H và anh V có đăng ký kết hôn tại UBND phường C, quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội nên là hôn nhân hợp pháp. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị ly hôn anh V nên là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là anh Hoàng Nhất V, có HKTT tại  46 Nam Ngư, phường C, quận Hoàn Kiếm, tHnh phố H Nội, nên theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm.

[3] Về quá trình tham gia tố tụng: Chị H chấp Hnh theo đúng các thông báo của Tòa án. Anh V hiện đang giam tại trại giam Thanh Cẩm, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa nên vắng mặt tại phiên tòa. Tòa án đã tiến Hnh giao các văn bản tố tụng cho anh V theo quy định của pháp luật.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

-  Về tình cảm: Chị H và anh V có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, theo chị H khai: anh chị sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp nhau, sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Theo anh V khai: anh không nhất trí ly hôn vì anh còn yêu vợ, yêu con, yêu gia đình. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H đã không còn tình cảm với anh V,  anh V đã vi phạm pháp luật và đang đi chấp Hnh án. Nên cần chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị H theo quy định điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Anh V không nhất trí ly hôn và đề nghị tòa án tạm đình chỉ vụ án đợi anh chấp Hnh xong hình phạt: Xét đề nghị của anh V thấy rằng mặc dù anh khai anh vẫn còn thương vợ, thương con nhưng anh không chăm lo đến hạnh phúc gia đình mà lại vi phạm pháp luật và đang phải chấp Hnh án phạt tù, nên đề nghị của anh là không có căn cứ chấp nhận.

- Về con chung: Anh, chị có 02 con chung là Hoàng Đặng Quý Thủy, sinh ngày 08/5/2015; Đặng Hoàng Nhật Minh, sinh ngày 30/3/2017, cả 02 con đều đang ở với chị H. Tại phiên tòa hôm nay, chị H đề nghị được nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của chị là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với thực tế nên được chấp nhận.

- Về tài sản chung, công nợ: chị H không yêu cầu giải quyết, anh V khai không có nên Tòa án không giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn  sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

  QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ vào điều 56, điều 81, điều 82, điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39, điều 147, điều 272, điều 273,điều 371 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 3, khoản 5 điều 27 nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh  Hoàng Nhất V. Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Hoàng Nhất V.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Hoàng Đặng Quý Thủy, sinh ngày 08/5/2015; Đặng Hoàng Nhật Minh, sinh ngày 30/3/2017 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh V cho đến khi có sự thay đổi khác.

Anh V có quyền chăm sóc, thăm hỏi con chung, không ai được ngăn cản  3. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: chị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số   0018295 ngày 10/3/2021 tại Chi cục thi Hnh án dân sự quận Hoàn Kiếm được đối trừ.

Án xử công khai sơ thẩm, chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình (chồng ngáo đá, đang đi tù, không đồng ý ly hôn) số 22/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về