TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 62/2023/DS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN
Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N xét xử sơ thẩm cbà khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 82/2023/TLST-DS ngày 7 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 82/2023/QĐST-HPT ngày 31/8/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S - Địa chỉ: 266-268 đường N, phường V, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Bà: Nguyễn Đức Thạch D - chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thành N - Chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ. Địa chỉ: 130A-130-132 đường B, phường H 1, quận H, thành phố Đà Nẵng, theo giấy ủy quyền số 3270/2022/QĐ-PL ngày 26/12/2022 của Tổng giám đốc ngân hàng TMCP S và giấy ủy quyền ngày 17/04/2023 của Giám đốc chi nhánh ngân hàng TMCP S tại thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Hồ Thị Thanh T – Sinh năm: 1982 - Địa chỉ: 57 đường K20, phường K, quận N, Tp. Đà Nẵng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng và ý kiến trong quá trình tố tụng tại Tòa án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Nguyễn Thành N trình bày:
Ngày 24/01/2022, Bà T có ký với Ngân hàng TMCP S (gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng).
Căn cứ thu nhập của Bà T, Ngân hàng đã cấp hạn mức tín dụng 250.000.000 đồng với mục đích: tiêu dùng cá nhân.
Sau khi được cấp tín dụng Bà T đã thực hiện 1 giao dịch với tổng số tiền là 234.099.012 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ đến nay Bà T đã thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền 54.200.000 đồng. (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Sau thời gian sử dụng, Bà T vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 20 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 25/12/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của Bà T và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu (Dư nợ gốc) sang nợ quá hạn (Điều 26 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tính đến ngày 29/09/2023, Bà T còn nợ ngân hàng các khoản sau:
- Dư nợ : 268.154.235 đồng - Lãi quá hạn: 54.797.609 đồng - Lãi trong hạn: 27.398.804 đồng - Tổng cộng: 350.350.648 đồng (Bằng chữ: Ba trăm năm mươi triệu, ba trăm năm mươi nghìn, sáu trăm bốn mươi tám đồng) Lãi suất trong hạn: 2.50%/tháng Lãi suất quá hạn: 3.75%/tháng (2.50% x 150%) Mặc dù Ngân hàng đã yêu cầu Bà T có trách nhiệm thanh toán, tuy nhiên Bà T vẫn chưa thanh toán cho Ngân hàng, vi phạm các Điều khoản và Điều kiện đã qui định tại Hợp đồng.
Do đó, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T phải trả một lần cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 29/9/2023 là 350.350.648 đồng. Bà T phải tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 30/9/2023 cho đến khi trả dứt điểm nợ vay theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng.
* Bị đơn bà Hồ Thị Thanh T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng bà Thuỷ vẫn vắng mặt nên không có lời khai của bà Hồ Thị Thanh T trong hồ sơ vụ án và không có ý kiến phản hồi gì liên quan đến chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như ý kiến về việc có hay không yêu cầu phản tố.
* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đối với các bên đương sự, nguyên đơn là Ngân hàng TMCP S đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn là bà Hồ Thị Thanh T liên tục vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại các phiên tòa xét xử nên chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với bị đơn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nên phải chịu hậu quả pháp lý của việc không chấp hành quy định pháp luật tố tụng dân sự.
- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ Điều 280 của Bộ luật dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 7, Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S đối với bà Hồ Thị Thanh T. Buộc bà Hồ Thị Thanh T phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền 350.350.648 đồng (tính đến ngày 29/9/2023). Trong đó, Dư nợ gốc: 268.154.235 đồng; Lãi quá hạn: 54.797.609 đồng; Lãi trong hạn: 27.398.804 đồng; buộc bà Hồ Thị Thanh T tiếp tục trả lãi phát sinh kể từ ngày 30/9/2023 cho đến khi trả dứt điểm nợ vay theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính Phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30.6.2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ Ngân hàng thì tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S và bà Hồ Thị Thanh T là tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Bà Hồ Thị Thanh T (là bị đơn trong vụ án, không có yêu cầu phản tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bà Hồ Thị Thanh Thủy.
[2] Về nội dung vụ án:
Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại cổ phần S và bà Hồ Thị Thanh T bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/01/2022 và Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, có nội dung: Ngân hàng thương mại cổ phần S đồng ý cấp thẻ tín dụng cho bà Hồ Thị Thanh T với hạn mức sử dụng là 250.000.000 đồng dưới hình thức hạn mức tín dụng, để tiêu dùng cá nhân, lãi suất được tính theo biểu phí do Sacombank công bố trong từng thời kỳ, lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Theo thỏa thuận, bà Hồ Thị Thanh T có trách nhiệm thanh toán nợ theo thông báo hàng tháng mà Ngân hàng gửi cho bà theo thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 23 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Sau khi được cấp thẻ, bà Hồ Thị Thanh T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 234.099.012 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà Hồ Thị Thanh T chỉ thanh toán cho Ngân hàng số tiền 54.200.000 đồng. Mặc dù Ngân hàng đã thực hiện thông báo giao dịch hàng tháng và nhiều lần nhắc nhở nhưng bà Hồ Thị Thanh T vẫn không trả nợ. Do bà Hồ Thị Thanh T vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 25/12/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn.
Tính đến ngày xét xử (29/9/2023), bà Hồ Thị Thanh T còn nợ các khoản sau:
- Dư nợ gốc : 268.154.235 đồng - Lãi quá hạn : 54.797.609 đồng - Lãi trong hạn: 27.398.804 đồng - Tổng cộng : 350.350.648 đồng Do đó, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hồ Thị Thanh T phải trả toàn bộ khoản nợ nói trên và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 30/9/2023 cho đến khi bà Hồ Thị Thanh T trả hết nợ theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/01/2022 (kèm theo Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) được ký kết giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại cổ phần S với bà Hồ Thị Thanh T trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Hồ Thị Thanh T đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo thbà báo giao dịch của Ngân hàng, liên tục không trả nợ trong nhiều kỳ. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bà Hồ Thị Thanh T vẫn không trả được nợ. Do đó, ngày 25/12/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà Hồ Thị Thanh T và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn, áp dụng lãi suất nợ quá hạn trên toàn bộ dư nợ theo quy định của Ngân hàng. Như vậy, bà Hồ Thị Thanh T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên được cấp thẻ như thỏa thuận tại hợp đồng. Việc khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S yêu cầu Tòa án buộc bà Hồ Thị Thanh T phải trả số tiền 350.350.648 đồng (tính đến ngày 29/9/2023), trong đó nợ gốc: 268.154.235 đồng, Lãi quá hạn: 54.797.609 đồng, Lãi trong hạn:
27.398.804 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng;
Điều 280 của Bộ luật dân sự; Điều 7, Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên cần được chấp nhận.
Lãi suất tiếp tục được tính kể từ ngày 30/9/2023 trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất do các bên thoả thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/01/2022 và Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S cho đến khi bà Hồ Thị Thanh T thanh toán xong khoản nợ là phù hợp với điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối và Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được cbà bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S được chấp nhận nên bị đơn là bà Hồ Thị Thanh T phải chịu án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể số tiền bà Hồ Thị Thanh T phải chịu là (350.350.648 đồng x 5%) = 17.517.532 đồng.
Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí 583.000 đồng theo biên lai thu số 9725 ngày 06/7/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận N, thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227;
- Căn cứ Điều 280 của Bộ luật dân sự;
- Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;
- Căn cứ Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
- Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán” của Ngân hàng thương mại cổ phần S đối với bà Hồ Thị Thanh T.
Xử:
1. Buộc bà Hồ Thị Thanh T phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền 350.350.648 đồng (tính đến ngày 29/9/2023), trong đó nợ gốc: 268.154.235 đồng, Lãi quá hạn: 54.797.609 đồng, Lãi trong hạn: 27.398.804 đồng.
Lãi suất tiếp tục được tính kể từ ngày 30/9/2023 trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất do các bên thoả thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 24/01/2022 và Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S cho đến khi bà Hồ Thị Thanh T thanh toán xong khoản nợ.
2. Án phí DS - ST: 17.517.532 đồng bà Hồ Thị Thanh T phải chịu. Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án phí 583.000 đồng theo biên lai thu số 9725 ngày 06/7/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận N, thành phố Đà Nẵng.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán số 62/2023/DS-ST
Số hiệu: | 62/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về