Bản án về tranh chấp giao dịch quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu số 01/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 01/2024/DS-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU TUYÊN BỐ GIAO DỊCH VÔ HIỆU VÀ GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH VÔ HIỆU

Ngày 05/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 194/2023/DS-PT ngày 12/10/2023 về việc “Tranh chấp giao dịch về quyền sử dụng đất; yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 225/2023/QĐ-PT ngày 20/11/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 264/2023/QĐ-PT ngày 05/12/2023 giữa:

*Ngun đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1958 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

*Bị đơn: Ông Phạm Thọ B, sinh năm 1956 (có mặt) Bà Đào Thị T, sinh năm 1956 (có mặt) Đều cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đồng Viết Đ, sinh năm 1950 (Đã chết ngày 05/3/2022)

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông Đồng Viết Đ:

- Bà Phạm Thị N, sinh năm 1958 (vắng mặt) - Chị Đồng Thị H, sinh năm 1977 (vắng mặt) - Chị Đồng Thị T1, sinh năm 1981 (vắng mặt)

- Anh Đồng Viết H1, sinh năm 1984 (vắng mặt)

- Anh Đồng Viết M, sinh năm 1987(vắng mặt) - Anh Đồng Viết G, sinh năm 1990 (vắng mặt) Đều ở tại địa chỉ: thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G là bà Phạm Thị N (vắng mặt) Trú quán: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1950 (vắng mặt) - Ông Phạm Văn T3, sinh năm 1957 (vắng mặt) - Ông Phạm Tiến H2, sinh năm 1965 (vắng mặt) - Chị Hà Thị T4, sinh năm 1976 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Ủy ban nhân dân huyện L do ông Đặng Văn N1 - Chủ tịch UBND đại diện theo pháp luật, ủy quyền cho ông Vũ Công Đ1 - Phó trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L (vắng mặt).

- Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L do ông Nguyễn Trường S - Chủ tịch đại diện theo pháp luật (vắng mặt).

Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Phạm Thị N, bị đơn ông Phạm Thọ B.

Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa bà Phạm Thị N là nguyên đơn trình bày:

Thôn D có một số diện tích đất bãi nguồn gốc là của nông trường Mía Lục Ngạn để lại cho xã Đ, huyện L. Sau đó UBND xã Đ giao cho thôn để chia cho các hộ dân. Hộ gia đình bà được chia diện tích đất bãi ở khu sau lán xe bộ đội thuộc thôn D nay là thôn T, xã Đ. Về diện tích chia, lúc đầu bà có khai trong bản tự khai chia mỗi khẩu 10 thước. Nhà bà có 7 khẩu, cộng thêm 01 khẩu là cháu Đồng Văn V, con Liệt sĩ ông Đồng Viết N2, ở cùng gia đình bà nên hộ gia đình bà được chia khoảng 80 thước. Ngoài ra, quá trình sử dụng thì bà có vỡ hoang thêm về cuối bãi thêm một số diện tích khoảng trên dưới 240m2.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà có xin thay đổi lời khai. Theo đó, bà xác định, tại thời điểm năm 1993, thôn D nay là thôn T đã chia đất bãi sau Lán Xe bộ đội cho các hộ trong thôn theo định suất. Hộ gia đình bà có 6,5 định suất được chia, gồm vợ chồng bà là ông Đồng Viết Đ, bà là Phạm Thị N cùng các con Đồng Thị H, sinh năm 1977; Đồng Thị T1, sinh năm 1981; Đồng Viết H1, sinh năm 1984; Đồng Viết M, sinh năm 1987; Đồng Viết G, sinh năm 1990. Mỗi định suất (mỗi khẩu) được chia 180m2 đất trong đó có anh Đồng Viết G được chia 1/2 định suất = 90m2. Tổng số hộ gia đình bà được chia là 1170m2. Khi chia đất thì Đội Dân Chủ có chia thêm cho gia đình bà sử dụng là 125m2 đất bãi nên tổng diện tích đất bãi được giao là 1295m2. Tổng diện tích được chia là 1295m2 có đặc điểm: Phía Bắc giáp đất ông K, phía Tây giáp ruộng, phía Nam giáp đất bãi của ông S1, phía Đông giáp đường đi. Thời điểm chia, toàn bộ diện tích đất này chưa thể hiện trên bản đồ do địa phương chưa đo đạc bản đồ. Khi chia đất bãi cho các hộ thì thôn không thu bất kỳ khoản tiền gì. Sau khi được chia đất, vì hoàn cảnh khó khăn, bà đi sang Đài Loan lao động. Trong thời gian bà không ở nhà thì chồng bà là ông Đ đã cho vợ chồng ông B, bà T thầu bãi toàn bộ diện tích đất trên. Năm 2010-2012 bà về nước có sang đòi đất thì vợ chồng ông B, bà T xin làm thêm một thời gian đến năm 2014 sẽ trả. Năm 2014 bà tiếp tục sang yêu cầu vợ chồng ông B trả đất và yêu cầu vợ chồng ông B, bà T di chuyển toàn bộ cây cối lâm lộc trên diện tích đất để trả đất vì đất của bà là đất bãi, cho mượn để trồng đỗ, lạc nhưng ông B, bà T lại tự ý đi trồng cây lâu năm. Lúc này, thì vợ chồng ông B, bà T lại thay đổi, cho rằng đã mua đất của ông Đ nên không đồng ý di chuyển cây và trả đất. Bà đã làm đơn đề nghị UBND xã Đ hoà giải tranh chấp đất đai. Sau đó, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu ông B, bà T phải trả lại gia đình bà toàn bộ diện tích đất bãi trên.

Sau khi bà có đơn gửi ra đề nghị UBND xã giải quyết, tại Biên bản hoà giải tranh chấp đất đai do UBND xã Đ tổ chức ngày 18/7/2017, có nội dung ông Đ trình bày thừa nhận bán toàn bộ đất bãi trên cho vợ chồng ông B 20 năm, hai bên không lập giấy tờ văn bản gì. Còn ông B cho rằng mua thẳng toàn bộ diện tích đất trên của ông Đ và mua lâu dài. Việc giao dịch này là tự do ông Đ và ông B xác lập, không được sự đồng ý của mẹ con bà. Sau khi bà đi lao động về, ông Đ cũng không cho bà biết về việc bán đất trên và bà cùng các con bà cũng xác định chưa bao giờ chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông B, bà T diện tích đất bãi ở khu sau Lán xe. Do đó, bà đã xin thay đổi lời khai, bổ sung yêu cầu khởi kiện: Đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng QSD đất xác lập giữa ông Đồng Viết Đ và ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T đối với diện tích 1295m2 đất, thửa đất số 41, tờ bản đồ số 154 tại khu L, thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang là vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc ông B, bà T phải di chuyển cây trồng trên đất và trả lại cho bà phần diện tích 1295m2 đất bãi tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 154, diện tích tại khu L, thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Đối với phần diện tích khai hoang ở cuối bãi khoảng trên dưới 240m2, bà không đề nghị Tòa án giải quyết nữa.

Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ đất và định giá tài sản, bà N nhất trí với kết quả đo vẽ thẩm định tại chỗ và định giá đất và các tài sản trên đất ngày 02/8/2021. Các tài liệu chứng cứ bà đã nộp cho Tòa án đầy đủ, tại phiên tòa hôm nay bà không cung cấp gì thêm, bà vẫn giữ nguyên yêu cầu trên. Còn đối với hợp đồng thầu đất bãi ngày 30/9/1994 của ông Phạm Thọ B với UBND xã Đ và trưởng thôn D, xã Đ về việc đấu thầu diện tích 1295 m2 mà vợ chồng ông B nhận chuyển nhượng đất của ông Đ, thời hạn sử dụng là 20 năm không liên quan đến bà và các con bà, việc này đề nghị Tòa án xem xét Bị đơn ông Phạm Thọ B và bà Đào Thị T đều trình bày trong các bản tự khai:

Năm 1993 thôn D nay là thôn T có chia cho các hộ trong thôn theo định suất, mỗi định suất được chia là 180m2 đất bãi ở khu vực Lán X thuộc thôn T, xã Đ, huyện L. Nguồn gốc đất này là của nông trường Mía Lục Ngạn để lại giao cho UBND xã, UBND xã Đ đã nhất trí cho thôn D chia đất bãi cho các hộ trong thôn theo quy định của nhà nước. Hộ gia đình ông Đ là được chia 6,5 suất gồm có ông Đ, bà N và các con là chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G (trong đó anh G được chia 1/2 định suất = 90m2). Diện tích được chia là 1.170m2, sau thôn có chia thêm phần đất thừa cho gia đình ông Đ được sử dụng 125m2, tổng là 1.295m2. Sau khi chia thì bà N không có mặt tại địa phương. Đến tháng 9/1994 vợ chồng ông, bà đã mua của ông Đ bãi thầu có diện tích 1295m2, số tiền là 1 triệu đồng. Ông Đ lấy tiền tại nhà ông, bà. Thỏa thuận bằng miệng chuyển nhượng đất lâu dài, không chuyển nhượng 20 năm, không trừ nợ. Trong vòng 1 tuần ông đã làm giấy thầu với đội và xã, ký ngày 30/9/1994, thời hạn thầu là 20 năm với diện tích mua của ông Đ là 1.295m2 ở thôn D nay là thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Mảnh đất này ông Đ chưa làm một ngày nào, đội chia trong vòng một thời gian là chuyển nhượng cho ông. Đến năm 1995-1996 thì vợ chồng ông trồng vải thiều trên đất, hàng năm ông đóng thuế đầy đủ cho địa phương cho đến khi nhà nước không thu.

Đến năm 2017 bà N có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, buộc vợ chồng ông, bà trả lại tổng diện tích được chia ở khu vực bãi Lán Xe là 1.906m2. Ngoài ra diện tích đất khai hoang là 240m2 cũng liền kề với diện tích 1.906m2 là không đúng sự thật vì diện tích 1.906m2 trong đó có 1 số hộ cùng có diện tích đất được chia gồm: Hộ ông Phạm Văn C vợ là Hà Thị T4 diện tích 96m2; hộ ông Nguyễn Văn T2, vợ là Phạm Thị T5 240m2; hộ ông Phạm Văn T3, vợ là Đồng Thị N3 diện tích 168m2; hộ ông Phạm Tiến H2. Sau đó đã đổi cho vợ chồng ông, bà. Đến nay giữa vợ chồng ông và các hộ đổi đất trên vẫn sử dụng ổn định và bà N cho rằng diện tích hiện nay của ông, bà đang sử dụng mà ông Đ đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông, bà là vợ chồng ông, bà mượn là không đúng sự thật.

Nay bà N yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ông, bà không nhất trí vì việc chuyển nhượng đất giữa ông, bà với ông Đ là lâu dài, không phải 20 năm, mặc dù 2 bên không làm hợp đồng hoặc văn bản giấy tờ mua bán với nhau.

*Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của Ông Đồng Viết Đ:

- Bà Phạm Thị N, chị Đồng Thị H, chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết G, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M đều do bà Phạm Thị N đại diện theo ủy quyền. Chị Đồng Thị H. chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết G, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M đều thống nhất với lời khai và yêu cầu của bà Phạm Thị N.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn T2 trình bày trong biên bản lấy lời khai: Khoảng năm 1993-1994 gia đình ông được đội sản xuất thôn D chia cho khoảng 6-7 thước đất ruộng canh tác tại X, khu L, diện tích đất này liền kề với ruộng của ông Phạm Văn T3. Sau khoảng thời gian ông không nhớ, vợ chồng bà N, ông Đ với vợ chồng ông B, bà T đổi đất cho nhau, hay mua bán gì đó ông không rõ. Sau đó để thuận lợi cho việc canh tác sử dụng, gia đình ông đổi đất cho vợ chồng ông B, bà T ở X, sau UBND xã, từ đó đến nay hai gia đình vẫn sử dụng ổn định. Nay xảy ra tranh chấp đất giữa gia đình bà N với gia đình ông B, bà T không liên quan đến ông, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Ông Phạm Văn T3 trình bày trong biên bản lấy lời khai:

Năm 1994 gia đình ông được đội sản xuất Dân Chủ chia cho gia đình 120m2 đất nông nghiệp, chia theo định suất ở khu vực Lán Xe. Để thuận tiện cho việc sử dụng đất, gia đình ông đã thỏa thuận đổi đất cho gia đình ông B, bà T khoảng năm 1997-1998. Nay bà N cho rằng diện tích gia đình ông đổi cho nhà ông B là diện tích của gia đình bà N khai hoang được là không đúng sự thật, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Ông Phạm Tiến H2 trình bày trong biên bản lấy lời khai:

Vào năm 1993-1994 gia đình ông được đội sản xuất thôn D nay là thôn T chia cho 8 thước ruộng nông nghiệp tại khu L, liền kề với đất nhà ông Phạm Văn T3. Sau đó do để thuận tiện sử dụng đất, gia đình ông có đổi cho gia đình ông B, bà T để lấy phần ruộng của gia đình ông B ở khu khác cũng với diện tích là 8 thước. Nay giữa 2 gia đình vẫn sử dụng ổn định, không có gì thay đổi. Còn việc bà N cho rằng đất của bà N khai hoang được là không đúng sự thật, nay xảy ra tranh chấp giữa bà N với ông B, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Bà Hà Thị T4 trình bày trong biên bản lấy lời khai:

Vào năm 1993-1994 gia đình bà được đội sản xuất thôn D nay là thôn T chia cho 3 thước ruộng nông nghiệp tại khu L, liền kề với đất nhà ông Phạm Văn T3, ông B, ông T2. Sau đó do để thuận tiện sử dụng đất, gia đình bà có đổi cho gia đình ông B, bà T để lấy phần ruộng của gia đình ông B ở sau UBND xã với diện tích là 3 thước. Nay giữa 2 gia đình vẫn sử dụng ổn định, không có gì thay đổi. Còn việc bà N cho rằng đất của bà N khai hoang được là không đúng sự thật, nay xảy ra tranh chấp giữa bà N với ông B, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- UBND huyện L do ông Vũ Công Đ1- Phó trưởng phòng Tài Nguyên M huyện L là người đại diện theo ủy quyền, trình bày trong bản tự khai:

Hiện nay Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đang giải quyết vụ án tranh chấp QSDĐ giữa bà Phạm Thị N và ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T đều ở thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Thửa đất tranh chấp là thửa đất số 41, tờ bản đồ 154, diện tích 1.908,6m2 ở thôn T, xã Đ, huyện L. Nguồn gốc thửa đất là năm 1993 thôn Tân Dân chia đất ở khu vực đất bãi cho các hộ gia đình theo Nghị định 64-CP của Chính phủ, diện tích chia theo định suất theo hộ gia đình cá nhân, mỗi định suất là 180m2, hộ gia đình bà N có 6,5 suất gồm: ông Đ1, bà N, chị H, chị T1, anh G, anh H1, anh M, tổng được chia 1.170m2 (trong đó có anh G được chia 1/2 định suất = 90m2). Ngoài ra hộ ông Đ1 được chia thêm 125m2 đất bãi. Quá trình sử dụng ông Đồng Viết Đ (chồng bà N) đã bán diện tích đất này cho ông B, bà T, mua bán thỏa thuận bằng miệng không lập giấy tờ văn bản. Ngoài ra bà N cho rằng năm 1993 gia đình có khai hoang được diện tích 240m2 ở khu vực đất được chia là không có cơ sở. Thửa đất đang có tranh chấp từ trước đến nay chưa được cấp GCNQSDĐ lần nào. Nay xảy ra tranh chấp QSDĐ giữa bà N và vợ chồng ông B, bà T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- UBND xã Đ do ông Nguyễn Trường S- Chủ tịch đại diện hợp pháp, trình bày trong bản tự khai:

Sau khi UBND xã Đ nhận được thông báo thụ lý của Tòa án về việc tranh chấp QSDĐ giữa bà N và vợ chồng ông B, bà T ở thôn T, xã Đ. Diện tích tranh chấp đất hiện nay là thửa số 41, tờ bản đồ số 154 tại X, Lán Xe thuộc thôn T, xã Đ, huyện L diện tích là 1.908,6m2. Nguồn gốc là đất bãi, chuyên màu trồng cây. Năm 1994 thôn T chia diện tích đất bãi cho các hộ trong thôn, mỗi định suất là được 180m2. Thôn chia đất không thu tiền sử dụng đất. hộ ông Đ, bà N được chia 6,5 định suất, diện tích 1.170m2. Ngay sau khi được chia, ông Đ đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông B, bà T với giá là 1.000.000đ. Hai bên chỉ chuyển nhượng cho nhau bằng miệng, không thiết lập văn bản. Khoảng năm 1996, hộ ông B chuyển sang trồng cây ăn quả, nay bà N kê khai thêm diện tích được khai hoang là 240m2, cùng với số diện tích 1.908,6m2 ở khu L là không đúng sự thật. Để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Với nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đã quyết định:

- Áp dụng Điều 31, Điều 75 của Luật đất đai 1993; khoản 6 Điều 12, khoản 2 và 3 Điều 167, Điều 168, Điều 188, điểm b khoản 2 Điều 203 của Luật Đất đai 2013.

- Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; khoản 2, khoản 4 Điều 131, Điều 133, Điều 136, Điều 137, Điều 139, Điều 146, Điều 394, Điều 400, Điều 401, Điều 690, Điều 691, Điều 692, Điều 705, Điều 707 của Bộ luật dân sự năm 1995;

- Khoản 3 Điều 26, điềm a khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 70; khoản 147, 157; 158, 161; Điều 164, Điều 165, Điều 217 khoản 1 và 3, Điều 228, Điều 235, Điều 244, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N: Tuyên bố giao dịch về đất nông nghiệp bằng miệng giữa ông Đồng Viết Đ với ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T đối với diện tích 1.295m2 đất bãi nông nghiệp tại thửa đất số 41, theo tờ bản đồ số 154 đo năm 2009 ở khu L thuộc thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang vô hiệu.

- Buộc ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T phải giao trả lại diện tích 1.295m2 đất bãi nông nghiệp trị giá 251.230.000 tại thửa đất số 41, theo tờ bản đồ số 154 đo năm 2009 ở khu L thuộc thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang cho bà Phạm Thị N và những người kế thừa của ông Đồng Viết Đ là: bà Phạm Thị N, chị Đồng Thị H, chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M, anh Đồng Viết G.

(Thửa đất có hình đa giác ký hiệu: 1-2-3-4-12-13-1). Có sơ đồ kèm theo - Giao cho bà Phạm Thị N cùng các con là chị Đồng Thị H, chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M, anh Đồng Viết G do bà N đại diện theo ủy quyền được sở hữu 109 cây vải to, nhỏ trị giá 216.584.000d trồng trên diện tích 1295m2 đất.

Buộc bà Phạm Thị N cùng các con là chị Đồng Thị H, chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M, anh Đồng Viết G do bà N đại diện theo ủy quyền phải thanh toán trả ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T giá trị cây trồng trên đất là 216.584.000 đồng (Hai trăm mười sáu nghìn năm trăm tám mươi tư nghìn đồng).

- Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ gồm bà Phạm Thị N và các con chị Đồng Thị H, chị Đồng Thị T1, anh Đồng Viết H1, anh Đồng Viết M, anh Đồng Viết G do bà N đại diện theo ủy quyền phải trả cho ông Phạm Thọ B, bà Đào Thị T số tiền 125.615.000 đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 30/6/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã Quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản dân sự sơ thẩm số 26/20323/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang hủy Bản dân sự sơ thẩm số 26/20323/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, để Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết vụ án theo thẩm quyền.

Ngày 12/6/2023, nguyên đơn bà Phạm Thị N kháng cáo toàn bộ Bản dân sự sơ thẩm số 26/20323/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án sơ thẩm nêu trên.

Ngày 03/7/2023, bị đơn ông Phạm Thọ B kháng cáo toàn bộ Bản dân sự sơ thẩm số 26/20323/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn bà Phạm Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Bị đơn ông B trình bày: Ông không đồng ý với bản án sơ thẩm đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, do bản án sơ thẩm đã xét xử không đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên kháng nghị hủy bản án sơ thẩm.

+ Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang phát biểu:

- Về tố tụng: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và các đương sự đã chấp hành đầy đủ các trình tự, thủ tục của BLTTDS.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 296, khoản 3 Điều 308 BLTTDS, xử: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Phạm Thị N; Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam.

- Về án phí: Bà N, ông B được miễn án phí DSPT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Tòa án xét xử vắng mặt họ là đảm bảo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng nghị của VKSND tỉnh Bắc Giang, kháng cáo của bà Phạm Thị N và ông Phạm Thọ B:

2.1. Căn cứ tài liệu hồ sơ vụ án: Ngày 5/8/2021, TAND huyện Lục Nam đã thụ lý giải quyết vụ án và đã đưa chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Đ.

Bà N cho rằng, phần diện tích đất 1.295m2 bà tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng với ông B, bà T có nguồn gốc của thôn chia cho, gồm cả định xuất của chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G. Đại diện UBND xã Đ, UBND huyện L cũng có lời khai xác định diện tích đất bà N đang tranh chấp có nguồn gốc có một phần là định xuất đất chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G được thôn chia.

Tòa án đã xác định, hộ bà N, ông Đ, chị H, chị T1, anh H1, anh M, anh G được chia 6,5 suất đất = 1.170m2. Ngoài ra hộ ông Đ còn được chia thêm 125m2, tổng diện tích nhà ông Đ được sử dụng là 1.295m2. Ông Đ đã bán diện tích đất được chia cho ông B, bà T; không cho bà N và các con biết.

Tòa án đã giải quyết tuyên bố giao dịch về đất nông nghiệp giữa ông Đ và ông B, bà T đối với diện tích 1.295m2 đất là vô hiệu. Buộc ông B, bà T phải giao trả lại diện tích đất 1.295m2 cho bà N và chị T1, chị H, anh H1, anh M, anh G. Giao cho bà N và chị T1, chị H, anh H1, anh M, anh G được sở hữu 109 cây vải to, nhỏ trị giá 216.584.000đ trồng trên diện tích 1.295m2 đất. Buộc bà N và chị T1, chị H, anh H1, anh M, anh G phải thanh toán trả ông B, bà T giá trị cây trồng trên đất 216.584.000đ.

Như vậy, việc giải quyết vụ án có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chị T1, chị H, anh H1, anh M, anh G. Khi giải quyết vụ án, Tòa án đã đưa các anh chị này vào tham gia tố tụng với tư các người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Đ.

Theo công văn số 2771/QLXNC-P5 ngày 03/02/2021, Cục Q Bộ C1 xác định: Anh Đồng Viết H1 đã xuất nhập cảnh 7 lần; xuất cảnh gần nhất ngày 30/6/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh; anh Đồng Viết G đã xuất nhập cảnh 3 lần, xuất cảnh gần nhất ngày 07/01/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Theo bản tự khai ghi ngày 15/5/2022 chị H khai chị đang ở Đài Loan; bản tự khai ghi ngày 12/5/2022, anh G khai anh đang ở Hàn Quốc; bản tự khai ngày 11/5/2022, giấy ủy quyền ghi ngày 14/7/2022 chị T1 khai chị đang ở Hàn Quốc.

Nhưng Tòa án không thu thập tài liệu chứng cứ, thông tin xuất nhập cảnh của chị H, chị T1 để xác định chị H, chị T1 có đi xuất cảnh không, đi từ khi nào, hiện có ở nước ngoài không, là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Việc Tòa án xác định chị H, chị T1, anh G, anh H1 đều có địa chỉ tại thôn T, xã Đ, huyện L là không đủ căn cứ.

Về việc giải quyết nội dung vụ án: Tòa án xác định ông B, bà T đã trả cho ông Đ 1.000.000đ. Nhưng khi tuyên bố giao dịch về đất nông nghiệp giữa ông Đ và ông B, bà T đối với diện tích 1.295m2 đất là vô hiệu, Tòa án không buộc bà N và các con phải hoàn trả hoặc cho ông B, bà T 1.000.000đ do ông Đ đã nhận, là không đảm bảo quyền lợi của ông B, bà T.

Có căn cứ xác định anh H1, anh G ở nước ngoài tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, nên vụ án phải thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Bắc Giang theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc TAND huyện Lục Nam thụ lý giải quyết vụ án là không đúng thẩm quyền.

Từ những phân tích trên có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang và chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Thọ B hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam.

2.2. Xét kháng cáo của bà Phạm Thị N: Bà N kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xem xét xử lại toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam để đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà. Tuy nhiên, bà N đã được Tòa án tống đạt Giấy triệu tập hợp lệ 02 (hai) lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng. Việc vắng mặt của bà N tại phiên tòa ngày 05/01/2024 được coi là bà N đã từ bỏ việc kháng cáo. HĐXX thấy cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà N là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 296 BLTTDS.

[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét, giải quyết các quyết định khác của bản án sơ thẩm mà không có kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do bà Phạm Thị N, ông Phạm Thọ B là người cao tuổi nên bà N, ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 3 Điều 296, khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Phạm Thị N; Chấp nhận kháng nghị số 13/QĐ-VKS-DS ngày 30/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang; Chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Thọ B, Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 26/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

2. Về chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm: sẽ được xem xét khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà N, ông B không phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp giao dịch quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu số 01/2024/DS-PT

Số hiệu:01/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về