TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 189/2022/DS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH HỤI
Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 267/2022/TLST-DS ngày 02 tháng 6 năm 2022, về “Tranh chấp giao dịch hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2022/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1966 (có mặt). Địa chỉ: Ấp TrT, xã KH, huyện T, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1971 (có mặt). Địa chỉ: Ấp TrT, xã KH, huyện T, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 26/3/2022, quá trình hòa giải vụ án và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị L trình bày: Bà Nguyễn Thị N làm chủ hụi, có mở nhiều dây hụi, bà là hụi viên, có tham gia 03 chưng hụi trong 03 dây hụi của bà N, cụ thể như sau:
Dây 1: Mở ngày 20/01/2018 âm lịch, loại hụi 5.000.000đ, gồm 14 chưng, sáu tháng khui 01 kỳ, bà tham gia 01 chưng, đóng được 07 kỳ hụi sống, không nhớ số tiền đóng hụi. Nếu tính 07 kỳ hụi chết thì bà N nợ bà 35.000.000đ.
Dây 2: Mở ngày 15/4/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000đ, gồm 19 chưng, ba tháng khui 01 kỳ, bà tham gia 01 chưng, đóng được 06 kỳ hụi sống, không nhớ số tiền đóng hụi. Nếu tính 06 kỳ hụi chết thì bà N nợ bà 30.000.000đ.
Dây 3: Mở ngày 30/4/2020 âm lịch, loại hụi 2.000.000đ, gồm 36 chưng, một tháng khui 01 kỳ, bà tham gia 01 chưng, đóng được 18 kỳ hụi sống, không nhớ số tiền đóng hụi. Nếu tính 18 kỳ hụi chết thì bà N nợ bà 36.000.000đ.
Từ nội dung trên, bà yêu cầu bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ trả lại cho bà tổng số tiền của 03 chưng hụi trên là 101.000.000đ, cộng với 2.000.000đ bà N đã nợ bà trước đó, tổng cộng là 103.000.000đ. Ngoài ra, bà không còn yêu cầu khoản nào khác.
* Quá trình hòa giải vụ án và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị N trình bày:
Bà làm chủ hụi, có mở nhiều dây hụi, bà Nguyễn Thị L là hụi viên, có tham gia 03 chưng hụi trong 03 dây hụi như bà L trình bày là đúng. Dây hụi thứ 1 bà L đóng hụi sống được 21.590.000đ, dây hụi này đến ngày 20/9/2024 mới mãn hụi. Dây hụi thứ 2 bà L đóng hụi sống được 19.300.000đ, dây hụi này đến ngày 15/9/2024 mới mãn hụi. Dây hụi thứ 3 bà L đóng hụi sống được 22.910.000đ, dây hụi này đến ngày 05/3/2023 mới mãn hụi. Tổng số tiền bà L đóng hụi sống của 03 chưng hụi trong 03 dây hụi trên là 63.800.000đ, bà còn nợ bà L 2.000.000đ trước đó, tổng cộng là 65.800.000đ.
Nếu bà L đợi đến mãn hụi thì bà đồng ý trả cho bà L số kỳ đóng hụi tính theo chưng hụi chết, tổng số tiền 101.000.000đ. Trường hợp bà L không đồng ý thì bà trả lại cho bà L số tiền hụi sồng bà L đã đóng là 63.800.000đ nhưng phải trả dần chứ không trả một lần.
Tại phiên tòa, bà L yêu cầu bà N trả lại cho bà tổng số tiền 65.800.000đ, không yêu cầu khoản nào khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Về thẩm quyền và loại việc các bên tranh chấp là giao dịch hụi nên loại việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điêu 39 của Bộ luật Tô tụng dân sư.
[2] Về nội dung: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn đặt ra được xác định là giao dịch về hụi. Việc thỏa thuận giao dịch này được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có danh sách, hợp đồng chơi hụi, được tất cả các thành viên trong dây hụi thống nhất, có giao kèo chơi hụi, định mức giao nộp, thời gian mở hụi, chung hụi. Quá trình tham gia chơi hụi, bà L đã đóng hụi sống được một thời gian thì ngưng, do bà cho rằng đã hốt các chưng hụi trước đó nhưng bà N không chung nên bà không tiếp tục đóng các chưng hụi sau. Xét thấy, trong các dây hụi khác bà N có vi phạm hợp đồng chơi hụi và bà L đã khởi kiện, còn trong 03 dây hụi này, bà L đang tham gia nhưng không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi đầy đủ, đã vi phạm hợp đồng chơi hụi nên có cơ sở để chấp nhận thanh lý hợp đồng.
[3] Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc giao dịch hụi trên thực tế là có diễn ra, được xác lập trên tinh thần thỏa thuận tự nguyện, có tất cả các thành viên của các dây hụi xác nhận. Quá trình tham gia chơi hụi, bà L đã đóng hụi sống của 03 chưng hụi trong 03 dây hụi với tổng số tiền 63.800.000đ. Điều này được các bên thừa nhận, do đó, việc bà L yêu cầu bà N có nghĩa vụ trả lại cho bà L số tiền 63.800.000đ cộng với 2.000.000đ tiền nợ trước đó là có cơ sở chấp nhận.
[4] Song, vấn đề các bên không thống nhất là thời gian và phương thức thanh toán nợ. Bà L yêu cầu bà N thanh toán một lần, bà N chỉ đồng ý thanh toán dần cho đến khi dứt nợ. Xét thấy, việc thanh toán toàn bộ một lần hay thanh toán dần thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn thi hành án nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết là phù hợp.
[5] Bà N có nghĩa vụ thực hiện việc thanh toán nợ cho bà L nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bà L không phải chịu án phí, đã nộp tạm ứng án phí nên được hoàn lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 471 của Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;
- Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L – buộc bà Nguyễn Thị N có nghĩa vụ trả lại cho bà L tổng số tiền 65.800.000đ (Sáu mươi lăm triệu tám trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2/ Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc bà Nguyễn Thị N phải chịu 3.290.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Nguyễn Thị L không phải chịu án phí, ngày 02 tháng 6 năm 2022, bà L đã nộp tạm ứng án phí 2.775.000đ theo biên lai số: 4901 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T được hoàn lại khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp giao dịch hụi số 189/2022/DS-ST
Số hiệu: | 189/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về