Bản án về tranh chấp giao dịch dân sự hợp đồng góp vốn số 25/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 25/2023/DS-ST NGÀY 02/03/2023 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH DÂN SỰ HỢP ĐNG GÓP VỐN

Ngày 27 tháng 02 và ngày 02 tháng 03 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 84/2021/TLST-DS, ngày 24 tháng 5 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng góp vốn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2022/QĐXXST-DS, ngày 28 tháng 9 năm 2022 và các Quyết định hoãn phiên tòa số: 145/2022/QĐST-DS ngày 18 /10/2022; Thông báo số 358/TB.TA ngày 11/11/2022; Quyết định số: 175/QĐST-DS ngày 02/12/2022; Thông báo số: 168/TB.TA ngày 24/12/2022 và Thông báo số: 19/TB.TA ngày 07/02/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Huỳnh Ngọc H; địa chỉ: số A P, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.

2. Bà Lê Thị D; địa chỉ: số H N, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

3. Ông Nguyễn Phước T; địa chỉ: đường số G, KDC Công ty H, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D, ông Nguyễn Phước T: Anh Phạm Thành N, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp A, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Bà Bùi Thị N1, sinh năm 1955.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Chị Nguyễn Nhứt L (theo giấy ủy quyền ngày 16/6/2021).

Cùng địa chỉ: số B KDC I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thanh B. địa chỉ: số H, N, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

2. Anh Nguyễn Anh T1; địa chỉ: ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.

3. Chị Nguyễn Nhứt L; địa chỉ: số B KDC I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

4. Chị Nguyễn Việt H1, sinh năm 1981.

Người đại diện theo ủy quyền của của chị H1: Chị Nguyễn Nhứt L (theo Giấy ủy quyền ngay 17/6/2021).

Cùng địa chỉ: số B KDC I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

5. Anh Nguyễn Vĩnh T2; địa chỉ: số B KDC I, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

6. Bà Phạm Thị N2; sinh năm 1931; địa chỉ: thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang.

7. Bệnh viện Đa khoa tỉnh H; địa chỉ: đường T, khu V, phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Hoàng X. Chức vụ: Trưởng phòng tổ chức - hành chính.

8. Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên N5.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đan V. Chức vụ: Giám đốc Địa chỉ: Số C, ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang.

- Người làm chứng: Ông Đặng Hoàng L1.

Địa chỉ: số C B, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D, Ông Nguyễn Phước T có người đại diện theo ủy quyền anh Phạm Thành N trình bày:

Theo đơn khởi kiện ngày 13/12/2019: Vào ngày 01/6/2013 bà H, bà D, ông T cùng bị đơn bà Bùi Thị N1 thống nhất bằng văn bản về việc góp vốn thành lập bãi giữ xe công cộng tại Bệnh viện Đa Khoa tỉnh H, theo tỷ lệ góp như sau: bà Bùi Thị N1 50%; bà Huỳnh Ngọc H 20%; bà Lê Thị D 15%; ông Nguyễn Phước T 15% và lợi nhuận được chia theo tỷ lệ góp vốn, cử bà Bùi Thị N1 đại diện đứng ra làm chủ cơ sở bãi xe. Ngày 01/7/2013 cơ sở bãi giữ xe đi vào hoạt động, thời gian hoạt động đến hết ngày 31/6/2023. Theo thỏa thuận của các thành viên góp vốn thì tổng doanh thu và công khai tài chính sẽ vào cuối ngày của mỗi tháng, sau khi trừ đi các chi phí thì lợi nhuận sẽ chia theo tỷ lệ vốn góp thời gian từ ngày 01 đến ngày 05 của tháng tiếp theo. Từ khi bãi giữ xe đi vào hoạt động đến hết tháng 12/2018 thì lợi nhuận được chia đầy đủ đúng như thỏa thuận của các bên. Nhưng đến tháng 01 năm 2019 thì bà N1 không tiếp tục báo cáo tài chính và phân chia lợi nhuận. Nay các nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bị đơn bà N1 về chia lợi nhuận theo thời gian sau:

- Từ tháng 01/2019 - 8/2019: Các nguyên đơn có nhận được thông báo về số tiền mà bãi xe thu được thông qua hệ thống, cụ thể như sau:

+ Về doanh thu: tháng 01 là 96.874.000đồng; tháng 02 là 94.743.000đồng; tháng 03 là 141.446.000đồng; tháng 04 là 130.561.000đồng; tháng 05 là 142.674.000đồng; tháng 06 là 145.073.000đồng; tháng 07 là 165.835.000đồng; tháng 08 là 154.727.000đồng. Tổng thu là 971.933.000đồng.

+ Về chi phí hàng tháng: Do bà N1 không công bố báo cáo tài chính, nên lấy theo chi phí cố định của tháng 12/2018, mỗi tháng trung bình là 90.343.000đồng. Nên tổng chi của 08 tháng là 722.744.000đồng.

Nên, lợi nhuận còn lại sau khi trừ các chi phí là 249.189.000 đồng (thu 971.933.000đồng - chi 722.744.000đồng).

Do đó, theo tỷ lệ phân chia thì: Bà N1 được hưởng 50% tương đương số tiền 124.594.500đồng; bà H 20% số tiền 49.837.800đồng; bà D 15% số tiền 37.378.350đồng và ông T 15% số tiền 37.378.350đồng.

- Từ tháng 9/2019 đến nay (là tháng 12/2019): Do các nguyên đơn không còn nhận được thông báo tin nhắn của hệ thống báo cáo số tiền hàng tháng mà bãi xe thu được. Nên dựa trên số liệu trung bình từ tháng 01/2019 đến tháng 8/2019 thì lấy trung bình mỗi tháng như sau:

+ Về doanh thu: mỗi tháng là 121.491.625 đồng x 03 tháng.

+ Về chi phí hàng tháng: 90.343.000 đồng x 03 tháng (lấy dựa theo trung bình của tháng 12/2018).

Nên, lợi nhuận còn lại của 03 tháng là 93.445.875 đồng (thu 364.474.875 đồng - chi 271.029.000 đồng).

Do đó, theo tỷ lệ phân chia thì: Bà N1 được hưởng 50% là 46.72.937 đồng, bà H 20% là 18.689.175 đồng; bà D và ông T mỗi người hưởng 15% là 14.016.881đồng.

Như vậy, tổng cộng lợi nhuận từ khi ngưng đến nay (từ 01/2019 -12/2019): Bà N1 phải phân chia cho bà Huỳnh Ngọc H là 68.526.975 đồng; bà Lê Thị D và ông Nguyễn Phước T mỗi người là 51.395.231 đồng.

- Ngoài ra, các nguyên đơn yêu cầu bà Bùi Thị N1 cùng các nguyên đơn thuê một đơn vị độc lập để quản lí cơ sở bãi giữ xe trong thời gian còn lại của hợp đồng.

- Đến ngày 08/6/2020, các nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc chia lợi nhuận đối với 03 tháng từ tháng 09/2019 đến tháng 12/2019, do các nguyên đơn chưa thu thập được chứng cứ.

- Ngày 15/12/2021, các nguyên đơn có đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về thuê đơn vị độc lập quản lý bãi giữ xe.

Hiện nay, các nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu bị đơn bà N1 chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 - 8/2019 như trên, cụ thể: Cho bà H 20% là 49.837.800đồng; bà D và ông T mỗi người 15% là 37.378.350 đồng. Ngoài ra, không yêu cầu gì thêm.

- Bị đơn bà Bùi Thị N1 theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có người đại diện theo ủy quyền chị Nguyễn Thị Nhứt L2 trình bày:

Bà N1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, bởi lẽ do các nguyên đơn không hùn vốn góp đầy đủ như thỏa thuận. Vì tổng kinh phí xây dựng nhà xe và cơ sở vật chất trang thiết bị là 952.126.000 đồng, theo đó thì phía các nguyên đơn phải hùn vốn theo tỷ lệ 50% là 476.063.000 đồng, nhưng theo sổ ghi chép của ông Nguyễn Thanh N3 chết để thì bà tính toán lại các nguyên đơn góp vốn với tiền 255.0000.000đồng. Về “Biên bản họp các thành viên ngày 01/6/2013”, bà N1 thừa nhận có cùng các nguyên đơn ký kết theo nội dung các nguyên đơn đã thỏa thuận với ông Bùi Thanh N4 khi còn sống. Tuy nhiên, về mặt thời gian đúng khi ký kết lại biên bản là sau khi ông N4 chết khoảng 01 tháng (vào năm 2014). Sau khi ông N4 chết bà N1 là người tiếp quản bãi giữ xe và cùng các nguyên đơn đã phân chia lợi nhuận đầy đủ cho đến hết tháng 12/2018 thì ngưng. Do đầu năm 2019 bà N1 tìm gặp quyển sổ ghi chép của ông Nguyễn Thanh N3 để lại và bà tính toán số tiền khi xây dựng, đầu tư bãi giữ xe là 952.126.000 đồng và các nguyên đơn chỉ góp số tiền 255.0000.000 đồng là không đủ.

Nay bà N1 không đồng ý tiếp tục phân chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 đến nay và yêu cầu chấm dứt hợp đồng góp vốn, trả lại cho Lê Thị D số tiền 51.500.000 đồng; ông Nguyễn Phước T số tiền 15.000.000 đồng.

- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Thanh B trình bày: Ông là người cùng ông Bùi Thanh N4 đứng ra thỏa thuận và lên kế hoạch đầu tư, xây dựng bãi giữ xe. Khi ông N4 còn sống có tiến hành ký kết với các nguyên đơn về nội dung góp vốn theo tỷ lệ như “Biên bản họp các thành viên ngày 01/6/2013”, do sau khi ông N4 chết năm 2014 thì khoảng 01 tháng sau các nguyên đơn có đến thỏa thuận với bà N1 ký lại biên bản góp vốn do bà N1 đứng tên để tiện cho việc quản lý bãi giữ xe và bà N1 cũng thống nhất. Các bên đã tiến hành thực hiện và phân chia lợi nhuận đầy đủ, không ai phát sinh tranh chấp gì. Tuy nhiên, đầu năm 2019 thì bà N1 lấy lý do các nguyên đơn góp vốn không đủ theo sổ ghi chép của ông N4 để lại nên mới phát sinh tranh chấp.

Về kinh phí đầu tư, xây dựng bãi giữ xe theo dự tính ban đầu trong biên bản họp các thành viên là 1.500.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó ông và ông N4 tính toán hiện nay do nguồn vốn không đủ, nên sẽ đầu tư xây dựng theo từng giai đoạn, có lợi nhuận sẽ tái đầu tư cho các giai đoạn tiếp theo. Và được chia thành 03 giai đoạn, các nguyên đơn và ông N4 đã góp vốn và đầu tư xây dựng được đến giai đoạn 02 (tháng 8-9 năm 2013) và đưa bãi giữ xe vào hoạt động. Đến năm 2014, thì ông N4 chết nên giai đoạn 03 chưa xây dựng thêm được gì. Tổng kinh phí đầu tư cơ sở bãi giữ xe là khoảng 735.000.000 đồng và các chứng từ, hóa đơn đều đã giao cho ông N4 giữ và các bên đã tính toán với nhau xong, nên mới tiến hành phân chia lợi nhuận từ khi ông N4 còn sống và không ai có ý kiến gì hay tranh chấp gì. Nay ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.

2/ Anh Nguyễn Anh T1 trình bày: Anh là con ruột của bà N1 và ông N4, việc hùn vốn để kinh doanh bãi giữ xe của cha, mẹ anh thì anh không biết gì. Nay anh không có tranh chấp hay yêu cầu gì trong vụ án này Anh đồng ý để bà N1 đứng ra giải quyết vụ án và yêu cầu xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

3/ Chị Nguyễn Nhứt L2 và chị Nguyễn Việt H1 (chị L2 đại diện theo ủy quyền của chị H1) trình bày: Việc xây dựng hùn vốn bãi giữ xe của ông N4, bà N1 thì hai chị không biết gì. Từ sau khi phát sinh tranh chấp chị L2 là người quản lý bãi giữ xe phụ giúp bà N1 và lãnh lương, nên không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.

4/ Anh Nguyễn Vĩnh T2 trình bày: Anh không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này và yêu cầu xin được giải quyết vắng mặt.

5/Bà Phạm Thị N2 trình bày: Bà là mẹ ruột của ông Nguyễn Thanh N3; việc kinh doanh của ông N3 và bà N1 thì vợ chồng bà không biết gì. Nay chồng bà đã chết và bà không có tranh chấp hay ý kiến yêu cầu gì trong vụ án này và đề nghị được giải quyết vắng mặt.

6/ Bệnh viện Đa khoa tỉnh H có người đại diện hợp pháp trình bày: Bệnh viện có ký kết với ông Nguyễn Thanh N3 và sau này là bà Bùi Thị N1 thuê mặt bằng để kinh doanh bãi giữ xe mô tô tại bệnh viện, còn việc ông N3, bà N1 hùn vốn hay có tranh chấp gì với các nguyên đơn thì bệnh viện không biết. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật và bệnh viện không có ý kiến hay tranh chấp gì trong vụ án này. Năm 2022, bà N1 đã bàn giao bãi giữ xe lại cho bệnh viện và bệnh viện đã cho đơn vị mới đấu thầu quản lý nhà xe theo quy định.

8/ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N5: Tòa án đã tiến hành thông báo tham gia tố tụng và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng công ty không có văn bản ý kiến gì.

Những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án sau:

- Biên bản họp các thành viên ngày 01/6/2013; các giấy tờ sổ viết tay (bản pho tô), hóa đơn, chứng từ do bà N1 cung cấp.

- Tòa án có Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 07/QĐ-CCCC ngày 26/7/2021 và Quyết định số 06/QĐ-CCCC ngày 16/7/2021, nhưng các đương sự không cung cấp thêm được gì.

Những tài liệu, chứng cứ, tình tiết đương sự thống nhất và không thống nhất sau khi Tòa án tiến hành đối chất, thu thập trong hồ sơ vụ án:

- Những nội dung thống nhất:

+ “Biên bản họp các thành viên” đề ngày 01/6/2013: Các nguyên đơn và bà N1 thừa nhận có thống nhất ký kết lại vào ngày 01/6/2014 (sau ông N3 mất) nhưng đề ngày 01/6/2013 để bà N1 đứng tên cho thuận tiện việc quản lý và phân chia lợi nhuận, về nội dung biên bản thỏa thuận là phù hợp với nội dung đã ký kết với ông N3; các bên đã tiến hành thực hiện và phân chia lợi nhuận đúng và đủ theo tỷ lệ ghi trong biên bản từ khi ông N3 mất đến hết tháng 12/2018, qua tháng 01/2019 thì ngưng đến nay.

+ Về số tiền vốn góp: Các bên không góp đúng số tiền mặt thể hiện trong “Biên bản họp các thành viên” ngày 01/6/2013, mà số tiền góp vốn theo chi phí đầu tư, xây dựng thực tế. Khi góp vốn không có biên bản hay hợp đồng góp vốn riêng.

+ Về việc phân chia lợi nhuận: Không có biên bản phân chia lợi nhuận, chỉ tính toán với nhau và phân chia hàng tháng theo doanh thu được thông báo trên hệ thống tin nhắn; và chi phí phát sinh hàng tháng do bà N1 theo dõi ghi chép và báo cáo tổng kết cuối tháng và tiến hành phân chia tiền mặt; không có sổ sách kế toán kèm theo.

- Những nội dung không thống nhất:

+ Tổng giá trị đầu tư: Phía nguyên đơn cho rằng khoảng 735.000.000 đồng và đã góp đủ nên mới tiến hành phân chia lợi nhuận; còn bị đơn bà N1 cho rằng khoảng 964.417.000 đồng, các nguyên đơn chỉ góp 255.000.000 đồng (có lời khai 226.000.000 đồng), còn thiếu lại 227.000.000 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Các nguyên đơn có người đại diện theo ủy quyền anh N trình bày:

+ Giừ nguyên ý kiến rút lại 02 yêu cầu khởi kiện là chia lợi nhuận từ tháng 9/2019- 12/2019 và thuê đơn vị độc lập quản lý nhà xe theo các đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đã trình bày.

+ Giữ nguyên yêu cầu phân chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 - 8/2019: Đối với số tiền phân chia lợi nhuận các nguyên đơn yêu cầu theo đơn khởi kiện có chênh lệch về tổng doanh thu (từ tháng 01- 08/2019) là 971.933.000 đồng. Tuy nhiên, về số tiền thu, chi khi cấp sơ thẩm xét xử lần 1 đã được đối chiếu thống nhất với bị đơn. Sau khi xét xử phía nguyên đơn không có kháng cáo, nên tại phiên tòa hôm nay các nguyên đơn vẫn thống nhất số tiền cấp sơ thẩm đã tuyên. Cụ thể: nay yêu cầu bà N1 có nghĩa vụ chia lợi nhuận từ tháng 01/2019- 8/2019 cho bà H 20% tương ứng số tiền là 46.877.800đồng; bà D và ông T mỗi người 15% là với số tiền 35.158.350 đồng. Ngoài ra, các nguyên đơn không yêu cầu gì thêm; không tranh chấp hay yêu cầu giải quyết gì về cơ sở vật chất và thời gian hợp đồng còn lại của bãi giữ xe.

- Bị đơn bà N1 có người đại diện theo ủy quyền là chị Nguyễn Nhứt L2: Chị L2 vắng mặt, nên không có ý kiến trình bày. Tuy nhiên, bị đơn bà N1 trực tiếp có mặt tại phiên tòa trình bày: Bà không đồng ý tiếp tục phân chia lợi nhuận theo yêu cầu của các nguyên đơn, do các nguyên đơn đã không góp đủ tiền theo sổ ghi chép của ông N3 để lại. Bà đã thực hiện phân chia lợi nhuận đầy đủ và đúng theo tỷ lệ cho các nguyên đơn từ khi ông N3 chết đến hết tháng 12/2018, nhưng khi đầu năm 2019 bà phát hiện được sổ tay ông N3 để lại, trong đó ông N3 đã ghi chép rõ ràng các khoản chi phí, bà tính lại thì tổng kinh phí đầu tư bãi xe là 964.417.000 đồng, do các nguyên đơn chỉ góp được số tiền 255.000.000đồng, nên bà mới ngừng phân chia lợi nhuận, về số tiền lợi nhuận các nguyên đơn yêu cầu, do bà tự quản lý các chi phí, thu, chi của bãi xe và các con bà và cha mẹ ông N3 không có liên quan gì và không có tranh chấp gì; bà sẽ có trách nhiệm với các nguyên đơn khi giải quyết tranh chấp.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh phát biểu:

+ Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng quy định.

+ Về nội dung giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D, ông Nguyễn Phước T. Buộc bị đơn bà Bùi Thị N1 có nghĩa vụ thanh toán lại số tiền lợi nhuận cho bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D và ông Nguyễn Phước T từ tháng 01/2019 đến tháng 08/2019. Và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về yêu cầu chia lợi nhuận từ tháng 09/2019 - 12/2019 và thuê đơn vị độc lập quản lý nhà giữ xe. Về án phí, do bị đơn bà N1 là người cao tuổi có đơn yêu cầu đề nghị xem xét miễn án phí cho bà N1 theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D, ông Nguyễn Phước T khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Bùi Thị N1 thực hiện chia lợi nhuận theo thỏa thuận góp (hùn) vốn để đầu tư, xây dựng kinh doanh bãi giữ xe công cộng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh H thuộc khu V, phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Tòa án xác định quan hệ là tranh chấp giao dịch dân sự về “tranh chấp hợp đồng góp vốn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[1.2] Người đại diện theo ủy quyền của bà N1 và chị H1 là chị Nguyễn Nhứt L2 và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N5, Tòa án đã tiến hành thủ tục triệu tập xét xử hợp lệ nhưng vắng mặt; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Anh T1, Nguyễn Vĩnh T2, bà Phạm Thị N2, Bệnh viện Đa khoa tỉnh H có đơn xin giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Theo đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 08/6/2020 và ngày 15/12/2021 các nguyên đơn bà H, bà D, ông T tự nguyện xin rút lại yêu cầu khởi kiện về việc chia lợi nhuận từ tháng 09/2019 - 12/2019 và yêu cầu thuê đơn vị độc lập để quản lý bãi giữ xe. Tại phiên tòa, người đại diện các nguyên đơn anh N vẫn giữ nguyên yêu cầu rút khởi kiện như trên. Căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu chia lợi nhuận từ tháng 09/2019 - 12/2019 và yêu cầu thuê đơn vị độc lập để quản lý bãi giữ xe.

[2.2] Các nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu bị đơn bà N1 chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 - 8/2019, tuy nhiên theo số tiền cụ thể sau: Cho bà H 20% tương đương số tiền là 46.877.800đồng, bà P và ông T mỗi người 15% với số tiền là 35.158.350 đồng. Bị đơn bà N1 không đồng ý tiếp tục chia lợi nhuận như yêu cầu này của các nguyên đơn, vì lý do các nguyên đơn không góp (hùn) đủ vốn theo tỷ lệ của tổng số tiền kinh phí đầu tư bãi xe là 964.417.000 đồng.

[2.2.1] Xét, về các tài liệu, chứng cứ cần thu thập thêm:

Tòa án có Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số: 07/QĐ-CCCC ngày 26/7/2021 và Quyết định số: 06/QĐ-CCCC ngày 16/7/2021 cho các nguyên đơn và bị đơn bà N1 cung cấp các tài liệu, chứng cứ về hợp đồng góp vốn, các hóa đơn, chứng cứ, phân chia lợi nhuận... liên quan đến đầu tư xây dựng, cơ sở trang thiết bị đầu tư bãi giữ xe. Tuy nhiên, căn cứ tại văn bản ngày 30/7/2021 của người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn anh N trình bày các nguyên đơn không còn các tài liệu, chứng cứ nào khác; người đại diện ủy quyền của bị đơn là chị Nhứt L2 xác định các tài liệu, chứng từ đã cung cấp từ khi xét xử sơ thẩm lần 01, hiện nay không còn tài liệu, chứng cứ nào khác.

Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập, đối chiếu trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết theo quy định.

[2.2.2] Căn cứ Biên bản đối chất ngày 02/12/2021, biên bản lời khai, hòa giải và tranh tụng tại phiên tòa có cơ sở xác định: Giữa các đương sự có thỏa thuận giao dịch dân sự về góp (hùn) vốn để đầu tư, xây dựng kinh doanh bãi giữ xe môtô tại Bệnh viện đa khoa tỉnh H; theo đó, các đương sự không tiến hành lập văn bản riêng về hợp đồng góp vốn mà trên cơ sở thỏa thuận và thực hiện theo nội dung ghi nhận tại “Biên bản họp các thành viên” đề ngày 01/6/2013 để cùng đầu tư, xây dựng và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ bà N1 50%, bà H 20%, bà D và ông T mỗi người 15%.

Về nội dung “Biên bản họp các thành viên” được ký kết giữa các nguyên đơn H, D, T và bà N1 là phù hợp theo nội dung đã thỏa thuận trước đó với ông Nguyễn Thanh N3, do sau khi ông N3 chết để thuận tiện cho bà N1 quản lý và phân chia lợi nhuận nên các bên đã ký lại biên bản và đề ngày 01/6/2013 (đúng là ngày 01/6/2014) và đã thực hiện phân chia lợi nhuận, không có ai tranh chấp gì đến đầu năm 2019. Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị bãi giữ xe do các nguyên đơn và ông N3 thực hiện từ năm 2013 theo từng giai đoạn và đưa vào hoạt động, có phát sinh lợi nhuận sẽ tái đầu tư cho giai đoạn tiếp theo. Và từ khi ông N3 chết thì do bà N1 tiếp quản thì chưa đầu tư xây dựng thêm được hạng mục nào. Về tổng chi phí đầu tư dựa trên chi phí thực tế phát sinh.

[2.2.3] Theo các nguyên đơn thì tổng chi phí khoảng 735.000.000 đồng, các bên đã góp đủ theo tỷ lệ, có chứng từ và quyết toán xong với ông N3 khi còn sống, nên ông N3 mới tiến hành phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ và khi bà N1 tiếp quản thì các bên cũng tiếp tục tiến hành thực hiện, không ai có tranh chấp gì; Còn bị đơn bà N1 cho rằng chi phí khoảng 964.417.000đồng, do bà tính toán theo sổ ghi chép của ông N3 chết để lại thì nguyên đơn chỉ góp (hùn) số tiền 255.000.000 đồng (có lời khai là 226.000.000 đồng), còn thiếu số tiền 227.000.000 đồng là chưa đủ 50%, nên bà mới ngưng không tiếp tục chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 như trước đây.

[2.2.4] Qua tiến hành đối chất lời khai, bà N1 chỉ thừa nhận phía các nguyên đơn có người đại diện khi đó là ông B có giao tiền mặt cho ông N3 số tiền 126.000.000 đồng, còn các chi phí khác các nguyên đơn có trực tiếp thanh toán trên hóa đơn, chứng từ sau đó tính toán lại với ông N3 hay không thì bà không biết; các cơ sở hạ tầng có đầu tư, xây dựng nhưng cụ thể nguồn tiền của các nguyên đơn hay của ông N3 thì bà không biết.

Theo bà N1 thì tổng kinh phí đầu tư bãi xe là 964.417.000đồng như bản liệt kê chi phí (tại bút lục 52) và sổ tay, hóa đơn, chứng từ bà cung cấp, Xét thấy:

Một, đối với sổ tay có bút tích được cho là của ông Nguyễn Thanh N3 chết để lại: Thể hiện nội dung tựa đề “sổ thu, chi, tạm ứng”, trong khoảng thời gian tháng 6, tháng 7- 2013, trong đó có một số nội dung như: “tạm ứng tiền” của cậu L1 (ông Đặng Hồng L3 có ký tên xác nhận); các khoản ghi chú “Nhã xuất” (bút lục 42, 39, 38) và ghi chú “Cậu B đưa” (bút lục 40) nhưng không có ai ký tên xác nhận; các chi phí mua vật tư, dụng cụ...; và ngoài ra, ở một số trang có ghi chú các khoản trả lãi ngân hàng, tiền hụi, tiền vay (bút lục 45, 43). Nên, với các nội dung này có căn cứ xác định đây chỉ là sổ ghi chép theo dõi việc thu, chi của cá nhân ông N3 mà không phải là sổ sách kế toán dành riêng cho việc đầu tư, xây dựng bãi giữ xe và các khoản ghi quyết toán trong sổ chỉ có bút tích cá nhân ông N3, không có sự xác nhận nào của các thành viên góp vốn còn lại.

Hai, đối với các chứng từ, hóa đơn mua vật liệu, trang thiết bị có liên quan đến bãi giữ xe gồm: Tại 06 phiếu hóa đơn đỏ năm 2013 (B1 117, 116, 115, 114, 113 và bút lục 112 kèm theo bảng xác nhận công nợ bút lục 51) tổng cộng số tiền 162.615.000đồng và 40 hóa đơn bán lẻ năm 2013 (bút lục 71 đến 91) nhưng chưa rõ ai là người thanh toán hóa đơn này với số tiền 10.778.000đồng; và máy hệ thống phần mền quản lý xe số tiền 60.000.000đồng (bút lục 58-56). Với tổng cộng số tiền là 233.393.000 đồng.

Còn đối các khoản chi phí bà N1 kê nhưng chưa có đủ cơ sở chứng minh như: (1) 02 chứng từ thuê phòng nghỉ năm 2013 (bút lục 111-110) số tiền 3.730.000 đồng, nhưng không thể hiện ai là người sử dụng và có cơ sở quyết toán cho chi phí của bãi xe không; (2) đối với các khoản ông N3 xuất số tiền 12.560.000đồng. Tuy nhiên, theo sổ tay tại bút lục 42 thể hiện “Hai Nhã xuất” có các khoản mua dụng cụ đồ dùng bếp... nhưng trong các hóa đơn bán lẻ đã thể hiện, nên việc bà N1 kê thêm tại mục “ngày 1/7/2013” là đã cộng dồn; (3) đối với số lượng vật tư T số tiền 361.971.000 đồng nhưng không có đủ hóa đơn, chứng từ chứng minh; (4) đối với số tiền kê “tạm ứng cậu L3” hay “cậu Long ứng” từ khoảng 6-7/2013. Tuy nhiên căn cứ lời khai ông Đặng Hoàng L1 khai (bút lục 36, 166) thì ông chỉ là người coi công trình xây dựng, chấm công cho ông N3 và lãnh lương, khi đó ông N3 rất khó khăn ông có cho “ông N3 mượn tiền” để đầu tư bãi giữ xe. Như vậy, nếu ông N3 có mượn tạm ứng của ông L1 thì mượn theo danh nghĩa cá nhân ông N3 để ông N3 có nguồn vốn đưa vào đầu tư bãi xe theo tỷ lệ của ông theo thỏa thuận; hay mượn với danh nghĩa của bãi xe và đã quyết toán vào chi phí phần nào của bãi xe, vì theo các hóa đơn mua vật tư có do ông L1 thanh toán trực tiếp, nếu tạm ứng của ông L1 để chi trả tiền vật tư theo hóa đơn thì đã thuộc về mục chi phí của hóa đơn như trên.

Do đó, theo các khoản bà N1 tự tính toán liệt kê và các tài liệu, chứng cứ bà cung cấp thì chưa trùng khớp và không đủ cơ sở để chứng minh cho ý kiến phản bác của bà là tổng kinh phí xây dựng là 964.417.000đồng; Còn đối với các nguyên đơn cho rằng tổng kinh phí đầu tư là khoảng 735.000.000đồng và các chứng từ đã giao cho ông N3 giữ nay không còn.

Như vậy, cả nguyên đơn và bị đơn đều không thể chứng minh được tổng kinh phí đầu tư, xây dựng thực tế theo trình bày của các bên.

[2.2.5] Tuy nhiên, về sự kiện pháp lý không phải chứng minh là “Biên bản họp các thành viên” được bà N1 và các nguyên đơn ký kết trên cơ sở tự nguyện và phù hợp ý chí các bên. Bà N1 là người tiếp quản cơ sở bãi giữ xe này, nên buộc bà phải có nghĩa vụ kiểm tra tính hợp pháp của giao dịch hợp đồng góp vốn, cũng như quyền và nghĩa vụ các bên. Nhưng, tại thời điểm nhận chuyển giao đến đầu năm 2019, các bên không ai có tranh chấp gì về việc góp vốn này và bà N1 đã cũng thực hiện theo thỏa thuận và phân chia lợi nhuận đúng và đủ theo tỷ lệ. Nay, bà N1 cho rằng các nguyên đơn vị phạm nghĩa vụ góp vốn và phản bác lại sự kiện do chính bà xác lập và thực hiện nhưng chứng cứ bà đưa ra không đủ cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, nên yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là có căn cứ.

[2.2.6] Về số tiền lợi nhuận phải phân chia: Theo đơn yêu cầu khởi kiện các nguyên đơn thể hiện: doanh thu từng tháng từ tháng 01/2019 đến 08/2019 nếu tổng cộng lại là 1.071.963.000 đồng, nhiều hơn số tiền nguyên đơn ghi trong đơn là 971.933.000đồng. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm lần 01, các nguyên đơn không có kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn thống nhất với các số liệu trước đây. Tại phiên tòa hôm nay, bà N1 cho rằng số liệu doanh thu từng tháng nguyên đơn đưa ra là không đúng, nhưng tại cấp xét xử sơ thẩm lần 01 bà N1 đã thống nhất với các số liệu này và nay bà phản bác lại nhưng không cung cấp được chứng cứ nào khác.

Nên, Hội đồng xét xử lấy tổng doanh thu là 971.933.000 đồng và chi mỗi tháng là 92.193.000đồng (trung bình của 06 liền kề), mà không điều chỉnh lại tổng doanh thu theo từng tháng là có lợi cho bị đơn bà N1, cụ thể:

Tổng thu 971.933.000đồng - tổng chi 737.544.000đồng (92.193.000đồng x 08 tháng) = Lợi nhuận còn lại là 234.389.000 đồng.

Như vậy, theo tỷ lệ phân chia thì bà H 20% tương đương số tiền là 46.877.800 đồng, bà D và ông T mỗi người 15% là 35.158.350đồng.

[2.4] Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là hàng thừa kế của ông N3 là bà N2, anh Tuấn A, anh T2, chị L2, chị H1: Hiện nay, các đương sự không có yêu cầu hay tranh chấp gì trong vụ án này; việc đầu tư, xây dựng bãi giữ xe của ông N3 và bà N1 các đương sự đều không biết, các đương sự không có thu, giữ hay phân chia lợi nhuận gì đối với kinh doanh bãi giữ xe. Tại phiên tòa, các nguyên đơn chỉ yêu cầu trách nhiệm cá nhân bà N1 và bị đơn bà N1 cũng xác nhận các con bà và cha mẹ ông N3 không có liên quan gì, về lợi nhuận và thu, chi trong thời gian trên do chính bà thu, giữ và bà sẽ có trách nhiệm giải quyết với các nguyên đơn.

Xét thấy, Tòa án đã đưa các hàng thừa kế của ông N3 vào tham gia tố tụng, nhưng các đương sự không ai có ý kiến hay tranh chấp gì với bà N1 về tài sản hay quyền, nghĩa vụ của người chết để lại. Do đó, có căn cứ xác định lợi nhuận trong khoảng thời gian trên do chính bà N1 trực tiếp thu giữ, nên bà N1 phải có nghĩa vụ với các nguyên đơn. Nếu các hàng thừa kế của ông N3 có tranh chấp gì về tài sản và quyền, nghĩa vụ của người chết để lại với bà N1 thì sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Do đó, buộc bị đơn bà N1 có nghĩa vụ giao số tiền lợi nhuận được phân chia cho các nguyên đơn như trên.

[2.5] Đối với cơ sở vật chất và thời gian hoạt động còn lại của bãi giữ xe: Theo thỏa thuận hợp đồng thuê mặt bằng với Bệnh viện đa khoa tỉnh H thì cơ sở hạ tầng bãi giữ xe sẽ giao lại cho bệnh viện khi hết hạn hợp đồng ngày 31/6/2023. Tuy nhiên, vào ngày 28/2/2022 bà N1 đã thanh lý hợp đồng với bệnh viện và đến ngày 01/7/2022 bệnh viện đã cho đơn vị mới thuê với hình thức đấu thầu theo quy định là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N5.

Tòa án đã tiến hành thông báo cho công ty T3 tố tụng, nhưng công ty không có ý kiến gì gửi Tòa án và các nguyên đơn, bị đơn đều không ai có ý kiến hay tranh chấp gì về cơ sở vật chất và thời gian hoạt động còn lại của bãi xe, nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3] Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn; buộc bị đơn bà N1 có nghĩa vụ giao tiền lợi nhuận trong thời gian tháng 01/2019 - 8/2019, cho các nguyên đơn H số tiền là 46.877.800đồng, bà D là 35.158.350đồng và ông T là 35.158.350đồng.

Nên đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh là có căn cứ được chấp nhận.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Do bị đơn bà N1 là người cao tuổi và đơn xin miễn án phí, nên được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị đơn nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 91, 147, 244, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; Các Điều 275, 352, 385, 388 của Bộ luật Dân sự 2015.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu chia lợi nhuận từ tháng 09/2019 - 12/2019 và yêu cầu thuê đơn vị độc lập để quản lý bãi giữ xe của các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D và ông Nguyễn Phước T đối với bị đơn bà Bùi Thị N1.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc H, bà Lê Thị D và ông Nguyễn Phước T đối với bị đơn bà Bùi Thị N1 về yêu cầu chia lợi nhuận từ tháng 01/2019 đen tháng 08/2019, cụ thể:

2.1 Buộc bà Bùi Thị N1 có nghĩa vụ giao tiền lợi nhuận cho bà Huỳnh Ngọc H số tiền 46.877.800 đồng (bốn mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi bảy nghìn tám trăm đồng); cho bà Lê Thị D số tiền 35.158.350đồng (ba mươi lăm triệu một trăm năm mươi tám nghìn ba trăm năm đồng); cho ông Nguyễn Phước T số tiền 35.158.350đồng (ba mươi lăm triệu một trăm năm mươi tám nghìn ba trăm năm đồng).

2.2 Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

3.1 Bị đơn bà Bùi Thị N1 được miễn án phí theo quy định.

3.2 Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho các nguyên đơn Bà Huỳnh Ngọc H số tiền 1.713.000đồng (một triệu bảy trăm mười ba nghìn đồng), theo biên lai thu số 0002925, ngày 25/12/2019; cho bà Lê Thị D số tiền 1.275.000đồng (một triệu hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), theo biên lai thu số 0002924, ngày 25/12/2019 và cho ông Nguyễn Phước T số tiền 1.275.000đồng (một triệu hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) biên lai thu số 0002926, ngày 25/12/2019. Các biên lai của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

4. Quyền kháng cáo: Các nguyên đơn Huỳnh Ngọc H, Lê Thị D, Nguyễn Phước T có người đại diện theo ủy quyền anh Phạm Thành N có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn bà Bùi Thị N1 có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là chị Nguyễn Nhứt L2 vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt; niêm yết hợp lệ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ hên quan: Ông Nguyễn Thanh B vắng mặt; Bệnh viện Đa khoa tỉnh H vắng mặt; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N5 vắng mặt và các anh Nguyễn Anh T1, chị Nguyễn Nhứt L2, chị Nguyễn Việt H1, anh Nguyễn Vĩnh T2 và bà Phạm Thị N2 đều vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt; niêm yết hợp lệ.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp giao dịch dân sự hợp đồng góp vốn số 25/2023/DS-ST

Số hiệu:25/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:02/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về