Bản án về tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất số 41/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 41/2022/DS-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2022/TLST- DS ngày 17 tháng 01 năm 2022 về “tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2022/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trần Thị H, sinh năm 1955 Địa chỉ: ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Nguyễn Thị P, sinh năm 1962 và ông Trương Thanh N, sinh năm 1957 Địa chỉ: ấp C, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Hoàng L (chồng bà H), sinh năm 1949 (đã chết) Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L: Bà Trần Thị H, sinh năm 1955 Chị Lê Ngọc P1, sinh năm 1978 Chị Lê Thị T, sinh năm 1981 Chị Lê Thị Thúy H1, sinh năm 1992 Cùng địa chỉ: ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Anh Lê Phong C, sinh năm 1972 Địa chỉ: ấp C, xã V, huyện V, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của chị P1, chị T, chị H1, anh C: Bà Trần Thị H, sinh năm 1955; địa chỉ: ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Bà H, bà P có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày: Vào năm 2004 vợ chồng bà P, ông N có cố đất cho vợ chồng bà 02 công (tầm 3m) tọa lạc tại ấp C, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Thời hạn cố là 02 năm với giá 10 chỉ vàng 24k (loại 9999). Sau khi cố vợ chồng bà không sử dụng nên cho vợ chồng bà P thuê lại 02 năm với giá 05 chỉ vàng 24k (loại 9999), hai bên thỏa thuận khi nào hết hạn trả gốc lẫn lãi là 15 chỉ vàng 24k (loại 9999). Sau khi đến hạn, vợ chồng bà nhắc nhỡ nhiều lần nhưng vợ chồng bà P không trả.

Năm 2007 vợ chồng bà P trả được 03 chỉ, đến năm 2017 trả thêm 02 chỉ, năm 2021 bà P có trả thêm được 02 chỉ, còn nợ lại 08 chỉ (trong đó gốc 03 chỉ, lãi 05 chỉ).

Do hiện nay hoàn cảnh vợ chồng bà P cũng khó khăn nên bà bỏ không yêu cầu trả vàng lãi, bà chỉ yêu cầu vợ chồng bà P trả lại số vàng gốc là 03 chỉ vàng 24k (loại 9999), không yêu cầu gì khác.

* Bị đơn bà Nguyễn Thị P trình bày: Bà thừa nhận vợ chồng bà có thỏa thuận cố đất với vợ chồng bà H, hai bên có làm tờ cố đất ngày 25/12/2004. Bà cũng thừa nhận vợ chồng bà có nợ số vàng gốc cố đất là 10 chỉ vàng 24k (loại 9999) như bà H khởi kiện, bà trả nhiều lần tổng cộng được 07 chỉ vàng 24k. Hiện nay hoàn cảnh khó khăn nên bà xin bà H bỏ phần lãi và bà H cũng đồng ý. Bà xác định còn nợ lại vàng gốc cố đất là 03 chỉ vàng 24k, bà cũng có gặp bà H và hẹn với bà H đến ngày 01/4/2022 dương lịch sẽ trả hết 03 chỉ vàng 24k (loại 9999) nhưng hoàn cảnh khó khăn không trả được như lời hứa.

* Bị đơn ông Trương Thanh N vắng mặt, không có lời trình bày.

* Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L gồm chị P1, chị T, chị H1, anh C thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của bà H.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn bà H yêu cầu vợ chồng bà P, ông N trả lại 03 chỉ vàng 24k (loại 9999), không yêu cầu gì khác. Bà H thống nhất cho vợ chồng bà P thời hạn trả đến ngày 30/8/2022 dương lịch.

Còn bị đơn bà P thừa nhận còn nợ số vàng nêu trên, nhưng hiện nay hoàn cảnh khó khăn, xin bà H cho thời hạn đến ngày 30/8/2022 dương lịch vợ chồng bà sẽ trả đủ 03 chỉ vàng 24k (loại 9999).

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông N vắng mặt tại phiên họp và phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự còn lại đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc vợ chồng bà P, ông N trả lại 03 chỉ vàng 24k (loại 9999), ghi nhận sự tự nguyện của bà H cho vợ chồng bà P thời hạn trả đến ngày 30/8/2022 dương lịch.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn bà Trần Thị H khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Nguyễn Thị P, ông Trương Thanh N trả lại số vàng cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó theo Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật trong vụ án này là “tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất”.

[2] Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn ông N vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng ông N vắng mặt lần thứ hai không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông N.

Ông L là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, ông L đã chết nên Tòa án đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L gồm bà H, chị P1, chị T, chị H1, anh C theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bà H khởi kiện cho rằng vợ chồng bà P, ông N có cố đất cho vợ chồng bà 02 công (tầm 3m), thời hạn cố 02 năm với giá 10 chỉ vàng 24k (loại 9999). Sau khi cố vợ chồng bà không sử dụng nên cho vợ chồng bà P thuê lại 02 năm với giá 05 chỉ vàng 24k (loại 9999), hai bên thỏa thuận khi nào hết hạn trả gốc lẫn lãi là 15 chỉ vàng 24k (loại 9999). Sau khi đến hạn, vợ chồng bà nhắc nhỡ nhiều lần nhưng vợ chồng bà P không trả. Năm 2007 vợ chồng bà P trả được 03 chỉ, đến năm 2017 trả thêm 02 chỉ, năm 2021 trả thêm được 02 chỉ, còn nợ lại 08 chỉ (trong đó gốc 03 chỉ, lãi 05 chỉ). Bà khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng cố đất, buộc vợ chồng bà P trả lại số vàng gốc là 03 chỉ vàng 24k (loại 9999).

Hội đồng xét xử xét thấy, qua các biên nhận, giấy cố đất và lời khai của các đương sự có đủ cơ sở để kết luận vợ chồng bà P, ông N có cố đất cho vợ chồng bà H 02 công (tầm 3m), thời hạn cố 02 năm với giá 10 chỉ vàng 24k (loại 9999). Tuy nhiên giao dịch này của các bên bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo các Điều 117, 122, 131 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Số vàng còn nợ được bà H và bà P thống nhất là 03 chỉ vàng 24k (loại 9999). Do đó buộc vợ chồng bà P, ông N có nghĩa vụ trả cho bà H số vàng còn nợ là 03 chỉ vàng 24k (loại 9999). Đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của bà H cho vợ chồng bà P thời hạn trả đến ngày 30/8/2022 dương lịch.

Do bà H không có nhận quyền sử dụng đất 02 công (tầm 3m) tọa lạc tại ấp C, xã V, huyện A, tỉnh Kiên Giang của vợ chồng bà P nên Hội đồng xét xử không buộc trách nhiệm hoàn trả lại quyền sử dụng đất của bà H.

[4] Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị án nên chấp nhận ý kiến đề xuất của Kiểm sát viên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H buộc vợ chồng bà P, ông N có nghĩa vụ trả cho bà H là 03 chỉ vàng 24k (loại 9999). Đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của bà H cho vợ chồng bà P thời hạn trả đến ngày 30/8/2022 dương lịch.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Bà P, ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 74, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 116, 117, 122, 131 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc bà Nguyễn Thị P, ông Trương Thanh N phải trả cho bà Trần Thị H số vàng là 03 (ba) chỉ vàng 24k (loại 9999). Ghi nhận sự tự nguyện của bà H cho vợ chồng bà P, ông N thời hạn trả đến ngày 30/8/2022 dương lịch.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà P, ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).

Bà H được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp (do Lê Thị Thúy H1 nộp thay) là 1.250.000đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo lai thu số 0005234 ngày 10/01/2022 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang.

3. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất số 41/2022/DS-ST

Số hiệu:41/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về