TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 638/2023/DS-PT NGÀY 14/09/2023 VỀ TRANH CHẤP GIÁ TRỊ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
Ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 251/2023/TLPT-DS ngày 08 tháng 5 năm 2023 về “Tranh chấp giá trị quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất ở”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 20/2022/DS-ST ngày 21 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2207/2023/QĐ-PT ngày 17 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn H, sinh năm 1955; địa chỉ cư trú: Lô E7, đường số 09, khu công nghiệp Long H - Hòa B, ấp 7, xã Nhị Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cho ông Trần Văn H: Ông Nguyễn Văn Ph là Luật sư của Công ty Luật TNHH Ph thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: A15-01B Tòa nhà Babylon, 683A Âu C, quận Tân Ph, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
- Bị đơn: Ông Châu Đắc Ch, sinh năm 1939 (chết ngày 19/12/2019).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Châu Đắc Ch:
1. Ông Châu Thanh T, sinh năm 1973; vắng mặt.
2. Ông Châu Ngọc L, sinh năm 1974; vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1944; vắng mặt.
Cùng địa chỉ cư trú: Số 63/4 đường Nguyễn Trung Tr, phường 2, thành phố Tân A, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T, ông L và bà S: Ông Cao Thanh T, sinh năm 1980; đia chỉ cư trú: Số 24 Cách Mạng Tháng 8, phường 1, thành phố Tân A, tỉnh Long An; theo giấy ủy quyền ngày 07/9/2020 và ngày 14/9/2020; có mặt.
4. Bà Châu Mỹ H, sinh năm 1967; vắng mặt.
5. Ông Châu Hùng Tr, sinh năm 1969; vắng mặt.
6. Ông Châu Minh S, sinh năm 1971; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: 3940 Ash Street, Lake Elsinore, CA 92530, USA.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hồ Ngọc Tuyết L, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Số 29, đường Phan Văn T, thị trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An; vắng mặt.
2. Ông Châu Tùng Th, sinh năm 1944; địa chỉ cư trú: 01 Maurice Ponroy 94420 Le Plessis - Trévise, France (Cộng hòa Pháp); vắng mặt.
3. Bà Phạm Thị Hồng S, sinh năm 1963; bà Trần Thị Hương X, sinh năm 1985; bà Trần Thị Hải V, sinh năm 1988; tất cả vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà X và bà V: Bà Phạm Thị Hồng S, sinh năm 1963; theo giấy ủy quyền ngày 28/02/2022 và ngày 02/3/2022; có mặt.
Cùng địa chỉ cư trú: Lô E7, đường số 09, khu công nghiệp Long H - Hòa Bình, Ấp 7, xã Nhị Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là ông Châu Hùng Tr, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, bà Nguyễn Thị S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:
Ngày 15/11/2006, ông Châu Tùng Th khởi kiện ông Trần Văn H và bà Phạm Thị Hồng S tranh chấp nhà đất số 47 Ô1, khóm 1, đường Trương Công Đ, thị trấn Thủ T, huyện Thủ Th, tỉnh Long An. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên: “Xác định nhà và đất số 47, đường Trương Công Đ, Ô1, khóm 1, thị trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An là của ông Châu Tùng Th. Công nhận sự tự nguyện của ông Châu Tùng Th chuyển giao quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của nhà số 47, đường Trương Công Đ, Ô 1, Khóm 1, thị trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An cho ông Châu Đắc Ch. Công nhận sự tự nguyện của ông Châu Đắc Ch trả chi phí sửa chữa, xây dựng gác gỗ và chi phí di dời cho ông Trần Văn H, bà Phạm Thị Hồng S là 10.000.000đ. Ông Trần Văn H, bà Phạm Thị Hồng S cùng các con là Trần Thị Xuân H, Trần Thị Xuân H, Trần Thị Hải V được lưu cư 6 tháng trong nhà số 47 đường Trương Công Đ, Ô 1, Khóm 1, thị trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An. Hết thời gian lưu cư các đương sự phải giao trả nhà cho ông Ch.”.
Sau khi Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, ông Châu Đắc Ch làm đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 04 tháng 12 năm 2008, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An thực hiện thủ tục cưỡng chế giao nhà đất cho ông Ch. Ngày 05/3/2009, ông Ch được Ủy ban nhân dân huyện Thủ Th, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông Ch lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Châu Hùng Tr và bà Châu Ngọc Tường D; ông Tr, bà D lập hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông Trương Thanh L, bà Hồ Ngọc Kiều Phương L; ngày 20/8/2010, ông L và bà L lập hợp đồng tặng cho lại bà Hồ Ngọc Tuyết L.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 425/2011-DS-GĐT ngày 15/6/2011, Tòa án nhân dân tối cao xét xử hủy Bản án sơ thẩm số 15/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết sơ thẩm lại. Tại Quyết định số 08 /2013/QĐST–DS ngày 05/12/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: “Nguyên đơn ông Châu Tùng Th có địa chỉ cư trú ở Nước cộng hòa Pháp. Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo như địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp nhưng không có kết quả”.
Do ông Châu Đắc Ch là người đầu tiên trực tiếp nhận tài sản là nhà, đất tại địa chỉ số 47, Ô 1, khóm 1, đường Trương Công Đ, thi trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An và ông Ch đã thực hiện chuyển nhượng cho bên thứ ba khác nên ông Ch là người trực tiếp xâm phạm và gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của ông H. Vì vậy, ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Châu Đắc Ch phải bồi hoàn cho ông H số tiền 1.076.661.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản ngày 10/12/2019.
Người thừa kế quyền, nghĩa vụ của ông Châu Đắc Ch và Người đại diện theo ủy quyền trình bày: Không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện nguyên đơn vì ông Ch không có bất kỳ giao dịch nào với ông H để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ từ tài sản; Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án tối cao hủy bản án sơ thẩm cũng chỉ nêu các chứng cứ cần làm rõ để xét xử lại chứ không khẳng định đó là nhà đất của ông H. Trên cơ sở đó, bị đơn đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 21/4/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H về “Tranh chấp giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở” đối với ông Châu Đắc Ch. Buộc các đồng kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Châu Đắc Ch gồm: Bà Nguyễn Thị S, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, ông Châu Hùng Tr, ông Châu Minh S và bà Châu Mỹ H phải có trách nhiệm liên đới bồi hoàn giá trị quyền sở hữu nhà ở quyền sử dụng đất ở cho ông Trần Văn H số tiền là: 1.076.661.000 đồng (một tỷ không trăm bảy mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi mốt nghìn đồng) trên di sản của ông Châu Đắc Ch chết để lại.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.
Vào các ngày 18/7/2023, 27/4/2023, các ông bà Châu Hùng Tr, Châu Thanh T, Châu Ngọc L, Nguyễn Thị có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do: Ông Châu Đắc Ch không tranh chấp với ông Trần Văn H; Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã bị Tòa án nhân dân tối cao hủy để xét xử lại và hiện nay tranh chấp trên chưa được giải quyết nên không có căn cứ xác định nhà đất thuộc quyền sử dụng của ông H hay ông Th; vì vậy, yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H là không có cơ sở.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông Trần Văn H trình bày:
Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã bị Tòa án nhân dân tối cao hủy và Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã đình chỉ giải quyết vụ án, do vậy về mặt pháp lý thì ông H là chủ sử dụng hợp pháp nhà đất trên, nên việc ông khởi kiện yêu cầu ông Ch, là người thụ hưởng nhà đất, phải hoàn trả giá trị là hoàn toàn có căn cứ. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Trần Văn H thống nhất với quan điểm của Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:
- Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Ông Châu Văn Ch là người thụ hưởng căn nhà nên có nghĩa vụ bồi hoàn giá trị nhà đất cho ông Trần Văn H; những người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông Ch chỉ phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của ông Ch trong phạm vi di sản thừa kế của ông Ch để lại; từ đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông bà Châu Hùng Tr, Châu Thanh T, Châu Ngọc L, Nguyễn Thị S nộp trong thời hạn và đúng thủ tục luật định nên hợp lệ, do đó được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về nội dung tranh chấp và kháng cáo của đương sự:
[3.1] Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thì ông Châu Đắc Chí là người được ông Châu Tùng Thiện chuyển giao quyền sở hữu nhà đất tại địa chỉ số 47 Ô1, khóm 1, đường Trương Công Đ, thị trấn Thủ Th, huyện Thủ Th, tỉnh Long An. Trên thực tế, sau khi được đứng tên quyền sở hữu nhà đất, ông Ch đã lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Châu Hùng Tr, bà Châu Ngọc Tường D; ông Tr, bà D sau đó chuyển nhượng cho ông Trương Thanh L, bà Hồ Ngọc Kiều Phương L; ngày 20/8/2010, ông L và bà L lập hợp đồng tặng cho lại bà Hồ Ngọc Tuyết L. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Châu Đắc Ch tham gia tố tụng với tư cách là người thế nghĩa vụ của ông Châu Tùng Th là đúng.
[3.2] Theo Quyết định giám đốc thẩm số 425/2011-DS-GĐT ngày 15/6/2011 của Tòa án nhân dân tối cao thì Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã bị hủy để xét xử lại sơ thẩm. Sau khi thụ lý lại vụ án, do không thực hiện được việc tống đạt văn bản tố tụng cho nguyên đơn là ông Châu Tùng Th nên Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết vụ án. Do vậy, tranh chấp giữa ông Châu Tùng Th và ông Trần Văn H được xem là chưa giải quyết xong. Tại thời điểm ông Th khởi kiện tranh chấp vào năm 2001 thì ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà; khi vụ án bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An đình chỉ giải quyết, xét về thực tế và pháp lý, ông H vẫn là chủ sử dụng đất và quyền sở hữu nhà hợp pháp. Đối với các giao dịch nhà đất trên được thực hiện sau khi Bản án sơ thẩm số 15/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An có hiệu lực pháp luật và trước thời điểm có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005. Trong vụ án này, các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét là đúng. Do đó, việc ông H khởi kiện yêu cầu ông Ch trả lại giá trị nhà đất là có cơ sở.
[3.3] Tại Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Văn H chỉ yêu cầu ông Châu Đắc Ch trả lại giá trị nhà đất là 1.076.661.000 đồng. Ngày 19/12/2019 ông Châu Văn Ch chết. Trên cơ sở phân tích tại tiểu mục [3.1], Tòa án cấp sơ thẩm xác định những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Ch gồm các ông bà: Nguyễn Thị S, Châu Thanh T, Châu Ngọc L, Châu Hùng Tr, Châu Minh S, Châu Mỹ H, đồng thời buộc những người này liên đới trả cho ông Trần Văn H số tiền 1.076.661.000 đồng trong phạm vi hưởng di sản của ông Châu Văn Ch để lại là đúng quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3.4] Ông Châu Hùng Tr, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, bà Nguyễn Thị S kháng cáo nhưng không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3.5] Xét quan điểm của Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn và quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Ông Châu Hùng Tr, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, bà Nguyễn Thị S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng: Điều 138 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 99 Luật đất đai năm 2013 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Châu Hùng Tr, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, bà Nguyễn Thị S; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 21/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An như sau:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H đối với ông Châu Đắc Ch về “Tranh chấp giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở”.
- Buộc các đồng kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Châu Đắc Ch gồm: Bà Nguyễn Thị S, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, ông Châu Hùng Tr, ông Châu Minh S và bà Châu Mỹ H có nghĩa vụ liên đới bồi hoàn giá trị quyền sở hữu nhà ở quyền sử dụng đất ở cho ông Trần Văn H số tiền là 1.076.661.000 (một tỷ không trăm bảy mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi mốt nghìn) đồng trong phạm vi di sản của ông Châu Đắc Ch để lại.
- Về chi phí tố tụng gồm xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản và ủy thác tư pháp: Buộc bà Nguyễn Thị S, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, ông Châu Hùng Tr, ông Châu Minh S và bà Châu Mỹ H có trách nhiệm liên đới hoàn trả lại cho ông Trần Văn H số tiền 30.574.949 đồng trong phạm vi di sản của ông Châu Đắc Ch chết để lại.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Châu Đắc Ch được miễn. Ông Trần Văn H không phải chịu. Hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 37.500.000 đồng theo biên lai thu số 0001757 ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủ Th, tỉnh Long An.
- Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Châu Hùng Tr, ông Châu Thanh T, ông Châu Ngọc L, bà Nguyễn Thị S, mỗi người phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000358 ngày 04/5/2022 và số 000489 này 25/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.
3. Các quyết định khác của Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 21/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp giá trị quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 638/2023/DS-PT
Số hiệu: | 638/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về