Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội số 37/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 37/2023/LĐ-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 85/2023/TLST-LĐ ngày 19 tháng 6 năm 2023 về việc “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2023/QĐXXST-LĐ ngày 02 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2023/QĐST-LĐ ngày 29 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị D, sinh năm 1961.

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền:

- Ông Vũ Ngọc H, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Khu phố S, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Bà Dương Thị T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Số M, khu phố M, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Văn bản ủy quyền ngày 19/8/2023.

2. Bị đơn: Công ty TNHH Sản Xuất N;

Địa chỉ: Số ấp B, xã T, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Phúc T - Chức vụ: Giám đốc.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai;

Địa chỉ: Số 219 đường Hà Huy Giáp, phường Quyết Thắng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Minh T - Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Phương H - Phó Chánh Văn phòng.

Địa chỉ: Số nhà 219, đường Hà Huy Giáp, phường Quyết Thắng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

(Tất cả các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là bà D trình bày:

Bà D vào làm việc cho Công ty TNHH Sản Xuất N (từ đây viết tắt là công ty) từ tháng 06/2005. Hợp đồng lao động hai bên ký thuộc loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc là công nhân, mức lương đóng BHXH trước khi nghỉ việc là số tiền 5.263.003đồng/tháng.

Trong thời gian làm việc tại công ty, bà luôn hoàn thành nhiệm vụ. Bà không nộp đơn xin nghỉ việc nhưng ngày 05/11/2022, công ty lại ban hành Quyết định số 139/2022/QĐTV-AFM cho bà thôi việc, kể từ ngày 05/11/2022 và lý do mà công ty nêu ra là bà có đơn xin nghỉ việc. Sau khi nhận Quyết định giải quyết cho thôi việc thì bà không còn làm việc cho công ty bắt đầu từ ngày 05/11/2022. Khi kiểm tra lại thông tin về bảo hiểm xã hội thì bà mới biết từ tháng 01/2020 đến khi bà nghỉ việc, công ty không đóng tiền bảo hiểm xã hội cho bà .

Bà đã nhiều lần liên hệ lãnh đạo của công ty để yêu cầu công ty đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội cho bà cho bà nhưng công ty hứa hẹn hết lần này đến lần khác và cho đến nay thì công ty đóng cửa, không còn hoạt động, không giải quyết cho bà.

Do vậy bà khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Tuyên bố Quyết định về việc giải quyết cho thôi việc số 139/2022/QĐTV- AFM ngày 05/11/2022 của Công ty TNHH Sản xuất N là trái pháp luật.

2. Trả tiền lương trong những ngày bà D không được làm việc từ ngày 05/11/2022 đến ngày Tòa án xét xử, tạm tính đến ngày 05/6/2023 (ngày bà D làm đơn khởi kiện) là 07 tháng: 5.263.003 đồng/tháng x 07 tháng = 36.841.021 đồng.

3. Trả thêm một khoản ít nhất bằng 02 tháng lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 55.263.003 đồng/tháng x 02 tháng = 10.526.006 đồng.

4. Truy đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà D không được làm việc từ ngày 05/11/2022 đến ngày Tòa án xét xử, tạm tính đến ngày 05/6/2023 là 07 tháng: 5.263.003 đồng/tháng x 07 tháng x 21,5% = 7.920.819 đồng. Tổng cộng các khoản bà D yêu cầu là 55.287.846 đồng.

5. Buộc công ty TNHH Sản xuất N phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà D từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 là 02 năm 06 tháng và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm cho bà D theo quy định pháp luật.

Tuy nhiên ngày 27/7/2023, bà thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Bà rút phần các yêu cầu tuyên bố công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà những ngày bà không được làm việc. Khi cần thì bà sẽ khởi kiện lại sau bằng vụ kiện khác. Trong vụ án này, bà chỉ còn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà theo quy định của pháp luật.

* Bị đơn là Công ty TNHH Sản Xuất N đã được tống đạt hợp lệ các văn bản theo trình tự tố tụng nhưng không tham gia tố tụng và không cung cấp tài liệu, văn bản trình bày ý kiến về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án:

* Người có quyền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai do bà Đinh Thị Phương H đại diện bản trình bày:

Bà Trịnh Thị D, sinh 01/01/1961, mã số BHXH 4707081615, có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ-BNN) tại Công ty TNHH sản xuất N từ tháng 11/2006. Từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022, công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho bà D.

Để xác nhận thời gian đóng BHXH (chốt sổ BHXH) cho bà D, Công ty TNHH sản xuất N phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà D từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 và tiền lãi chậm đóng theo quy định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh quản lý.

* Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định tại các Điều: 239, 243, 248, 249, 250, 251, 253, 254, 256, 260 và Điều 263 của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại các Điều 70, 71, 72, 86, 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình và không đến tham gia tố tụng mặc dù đã được thông báo, triệu tập nhiều lần nên việc Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn để giải quyết dứt điểm vụ án là phù hợp.

Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn là bà D rút một phần yêu cầu khởi kiện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu này. Yêu cầu còn lại của bà D về việc buộc Công ty TNHH sản xuất N phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà D từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 và thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà D theo quy định của pháp luật là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà D và buộc bị đơn là Công ty TNHH sản xuất N phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

[1.1] Căn cứ vào quan hệ lao động và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.

[1.2] Bị đơn là Công ty TNHH Sản Xuất N có trụ sở chính tại số 66 Đường Cộ - Cây Xoài, ấp Bình Chánh, xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai nên căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự theo quy định tại sự khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Công ty TNHH Sản Xuất N là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo cụ thể yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo cũng như các tài liệu, chứng cứ khác mà Tòa án đã thu thập được. Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn không tham gia giải quyết vụ án, cũng không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

3.2 Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Theo trình bày của bà D ý kiến của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Nai thì bà D có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ-BNN) tại Công ty TNHH sản xuất N từ tháng 11/2006 đến tháng 11/2022. Tuy nhiên, từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022, công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho bà D. Như vậy giữa bà D và Công ty TNHH Sản Xuất N có quan hệ lao động và công ty phải có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm xã hội và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà D theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Như vậy việc bà D yêu cầu công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà D từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 vào Quỹ BHXH, đồng thời công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà D là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 5 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hi, khoản 3 Điều 47 của Bộ luật Lao động nên yêu cầu khởi kiện của bà D là có cơ sở chấp nhận.

[3.3] Đối với yêu cầu của bà D về việc tuyên bố Công ty TNHH Sản Xuất N chấm dứt hợp đồng lao động với bà D trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà những ngày bà D không được làm việc thì bà D đã rút. Việc bà D rút yêu cầu khởi kiện này là tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận và đình chỉ yêu cầu khởi kiện. Bà D có quyền khởi kiện lại những yêu cầu này bằng vụ án khác.

[4] Về án phí lao động sơ thẩm: Yêu cầu của bà D được chấp nhận nên Công ty TNHH Sản Xuất N phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[5] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91; Điều 147; Điều 217; Điều 218; khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235; Điều 238; Điều 244; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 3 Điều 47; Điều 186 của Bộ luật Lao động;

- Điều 18; khoản 1 Điều 19; khoản 2 và khoản 5 Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội;

- Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị D đối với Công ty TNHH Sản Xuất N về việc tuyên bố Công ty TNHH Sản Xuất N chấm dứt hợp đồng lao động với bà D trái pháp luật; buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà D những ngày bà D không được làm việc.

Bà Trịnh Thị D có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị D đối với Công ty TNHH Sản Xuất N về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.

2.1. Buộc Công ty TNHH Sản Xuất N phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà Trịnh Thị D từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh Đồng Nai quản lý.

2.2. Buộc Công ty TNHH Sản Xuất N thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà Trịnh Thị D theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH Sản Xuất N phải chịu số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

5. Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội số 37/2023/LĐ-ST

Số hiệu:37/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về