Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bảo hiểm xã hội số 01/2024/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2024/LĐ-PT NGÀY 03/01/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Trong các ngày 28 tháng 12 năm 2023 và ngày 03 tháng 01 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 14/2023/TLPT-LĐ ngày 16 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bảo hiểm xã hội”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 21/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 11 năm 2023, giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1978; địa chỉ: số B, đường Đ, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Đỗ Thành H, sinh năm 1996; địa chỉ: số D, Đại lộ B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy ủy quyền ngày 11/3/2020), có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Doãn H1 - Luật sư, Công ty L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh B, vắng mặt.

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần X; trụ sở: đường D, khu công nghiệp P, khu phố D, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Phụng H2, sinh năm 1964; địa chỉ: số F, đường X, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Giấy ủy quyền ngày 26/6/2019), có mặt.

3. Người cỏ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Công ty Cổ phần X1; trụ sở: thửa đất số 499 (Lô A), tờ bản đồ số 28, khu phố A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn B (chết ngày 30/6/2021).

Người đại diện theo chỉ định: ông Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1961 (là cổ đông công ty); địa chỉ: số B, D- đường N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3.2. Bảo hiểm xã hội tỉnh B; trụ sở: số A, đường L, khu phố B, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Bà Ngô Thị Mộng H3 - Chức vụ: Phó trưởng phòng Thanh tra - Kiểm tra, là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 03/11/2021), có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

4. Người làm chứng:

4.1. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1961; địa chỉ: số B, khu phố C, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4.2. Ông Tạ Thúc T3, sinh năm 1964; địa chỉ: số A, đường B, khu phố A, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

4.3. Ông Lê Văn D, sinh năm 1965; địa chỉ: thôn V, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

5. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung án sơ thẩm:

* Tại Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ông Phạm Văn T là nhân viên của Công ty Cổ phần X (sau đây viết tắt là Công ty X) từ ngày 22/05/2003, hai bên có giao kết hợp đồng lao động cụ thể như sau: Mức lương tăng hàng năm đến năm 2016 là: 7.950.000 đồng/tháng; thời gian làm việc: từ 07 giờ sáng hôm nay đến 7 giờ sáng hôm sau, làm việc 15 ngày/tháng; công việc: Bảo vệ.

Đến tháng 06/2006, Công ty X thông báo là Công ty X sẽ đóng bảo hiểm cho nhân viên, nên Công ty X trừ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế hàng tháng theo tỷ lệ vào lương của ông Phạm Văn T từ đó cho đến khi đuổi việc ông T.

Trong quá trình làm việc tại Công ty X, ông T luôn tuân thủ đúng nội quy và quy chế hoạt động của Công ty không có bất cứ vi phạm hay bị áp dụng hình thức kỷ luật lao động nào. Tuy nhiên, vào tháng 01/2017 khi ông T đang làm việc như mọi ngày thì phía Công ty X đột ngột buộc ông T phải thôi việc mà không có lý do đồng thời trả tiền lương tháng cuối cùng và không cho ông T vào Công ty làm việc nữa.

Sau đó, ông T nhiều lần quay trở lại Công ty X để yêu cầu được gặp lãnh đạo công ty để được giải thích rõ ràng và giải quyết quyền lợi của ông T theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi ông T đến Công ty X thì bị bảo vệ của Công ty N không cho vào với nhiều lý do khác nhau.

Trong thời gian này, gia đình ông T lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn do ông T là lao động chính của gia đình, tất cả các khoản chi tiêu của gia đình đều phụ thuộc vào số tiền ông T kiếm được từ công việc tại Công ty X. Vì vậy, khi bị Công ty X đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật mà không được giải quyết thỏa đáng về quyền lợi cho người lao động khiến cuộc sống của gia đình ông T trở nên khủng hoảng.

Bên cạnh đó, nay tuổi ông T đã khá cao lại không có chuyên môn cũng như tay nghề chỉ làm bảo vệ. Do đó, việc mà Công ty X đột ngột đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật với ông T khiến ông T không thể tìm được công việc mới. về phía Công ty X thì lại không có bất cứ động thái nào về việc giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T cũng như không có bất cứ văn bản thông báo, giải thích gì về việc đơn phương chấm hợp đồng với ông T.

Do đó, ông T đã liên hệ các cơ quan có thẩm quyền khác để yêu cầu xem xét giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Theo đó, Ban quản lý các khu công nghiệp B đã tổ chức buổi làm việc cho ông T cùng với đại diện Công ty X vào ngày 03/10/2017, tại Biên bản làm việc số 36/BB-ĐD, Công ty X đồng ý hỗ trợ cho ông T hai tháng tiền lương cơ bản với số tiền là 8.024.000 đồng. Sau đó Công ty X không thực hiện theo đúng thỏa thuận, không chi trả cho ông T số tiền 8.024.000 đồng như cam kết.

Ngày 26/12/2017, ông Phạm Văn T đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu Công ty X phải bồi thường tổng số tiền 550.040.000 đồng (gồm tiền lương những ngày không được làm việc tạm tính từ ngày 12/01/2017 - 12/01/2018; bồi thường 02 tháng tiền lương; bồi thường 45 ngày do vi phạm nghĩa vụ báo trước ...).

Qúa trình tố tụng, ông T yêu cầu khởi kiện bổ sung tạm tính đến ngày 17/5/2023, ông T yêu cầu Công ty X phải thanh toán tổng số tiền 1.631.945.817 đồng (một tỷ sáu trăm ba mươi mốt triệu chín trăm bốn mươi lăm nghìn tám trăm mười bảy đồng) do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, cụ thể như sau:

STT

Khoản phải thanh toán

Thời gian

Số tiền

Cách tính

1

Tiền lương những ngày không được làm việc (cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 42 BLLĐ)

Tạm tính từ ngày 12/01/2017 - 06/04/2023 (tương đương 6 năm 02 tháng 24 ngày)

1.226.950.000 đồng

530.000 đồng/ngày x 6 năm 03 tháng

2

Bồi thường 02 tháng tiền lương (cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động)

02 tháng

15.900.000 đồng

7.950.000 đồng/tháng x 2 tháng

3

Bồi thường 45 ngày do vi phạm nghĩa vụ báo trước (cơ sở pháp lý: khoản 5 Điều 42, điềm a khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động)

45 ngày

23.850.000 đồng

530.000 đồng/ngày x 45 ngày

4

Tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội những ngày không được làm việc (cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động)

12/01/2017- 06/04/2023 (tương đương 06 năm 02 tháng 24 ngày)

193.781.250 đồng

7.950.000 đồng/tháng x 6 năm 3 tháng x 32,5%

5

Số tiền BHXH Công ty phải đóng cho người lao động nhưng không đóng

01/07/2010 - 31/07/2012 và 15/07/2014 - 31/12/2016 (tương đương 4 năm 7 tháng)

94.008.750 đồng

7.950.000 đồng/tháng x 04 năm 7 tháng x 21,5%

6

Số tiền Công ty thu của người lao động để đóng BHXH nhưng không đóng

01/07/2010 - 31/07/2012 và 15/07/2014 - 31/12/2016 (tương đương 4 năm 7 tháng)

45.911.250 đồng

7.950.000 đồng/tháng x 04 năm 7 tháng x 10,5%

7

Tiền lãi trên số tiền Công ty thu của người lao động để đóng BHXH nhưng không đóng

Tạm tính từ ngày 12/01/2017 đến ngày 06/04/2023 (tương đương 06 năm 02 tháng 24 ngày)

25.825.078 đồng

45.911.250 đồng x 0,75% x 6 năm 3 tháng

Đối với yêu cầu phản tố của Công ty X. Đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Bộ luật Lao động đình chỉ yêu cầu phản tố của Công ty X do hết thời hiệu khởi kiện.

* Quá trình tố tụng, người đại diện hợp pháp của bị đơn (ông Lê Phụng H2) trình bày:

Công ty Trách nhiệm hữu hạn X đăng ký thành lập lần đầu vào ngày 09/4/2001, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 46020001xx, địa chỉ trụ sở: ấp E, xã P, thị xã T, tỉnh Bình Dương (nay là khu phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương); đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 16/11/2010 với tên mới là Công ty TNHH X1; địa chỉ trụ sở: Lô A, khu phố A, phường H, thị xã (nay là thành phố ) T, tỉnh Bình Dương; đăng ký thay đổi lần thứ 10 ngày 23/12/2015, với tên gọi mới là Công ty Cổ phần X1; địa chỉ trụ sở: Lô A, khu phố A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Công ty Cổ phần X: Đăng ký thành lập lần đầu vào ngày 02/7/2004, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4603000xxxx, địa chỉ trụ sở: số D, tổ C, ấp E, xã P, thị xã T, tỉnh Bình Dương (nay là khu phố E, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương); đăng ký thay đổi lần thứ 9 ngày 17/12/2013, địa chỉ trụ sở: đường D, Khu công nghiệp P, Khu phố D, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Ông Phạm Văn T không làm việc cho Công ty Cổ phần X2 ngày 22/5/2003 vì thời điểm này Công ty Cổ phần X chưa được thành lập. Ông T chỉ làm việc cho Công ty Cổ phần X3 cụ thể như sau:

Đợt 1: Từ ngày 01/11/2008 đến ngày 31/7/2012; Công ty có ký hợp đồng lao động với ông T, tuy nhiên đã bị thất lạc.

Đợt 2: Từ ngày 15/7/2014 đến ngày 31/12/2016, theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ngày 15/7/2014.

Như vậy, tổng thời gian ông T làm việc cho Công ty Cổ phần X là 06 năm 02 tháng. Ngoài thời gian trên, ông T có làm việc cho Công ty Cổ phần X1.

Quá trình làm việc tại Công ty X, ngày 12/01/2017 ông T bị lập biên bản về việc không nghe sự chỉ đạo, không chấp hành sự điều động của ca trưởng, không nhận thức trong công việc và ca trưởng giao ông T cho Tổ trưởng tổ bảo vệ để xử lý. Sau đó thì ông T tự ý không đến Công ty X làm việc nữa.

Trước yêu cầu khởi kiện của ông T, Công ty X xác định: Công ty X không đơn phương chấp dứt hợp đồng lao động với ông T mà do ông T tự nghỉ việc nên Công ty X không đồng ý với các yêu cầu của ông T.

Ông T tự ý bỏ về và không quay trở lại làm việc, như vậy ông T đã đơn phương chấm dứt hợp đồng với Công ty X là trái pháp luật. Vì vậy, ngày 08/10/2019 Công ty X có đơn yêu cầu phản tố buộc ông T phải bồi thường và hoàn cho Công ty X các khoản sau:

- 1/2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 2.889.000 đồng/tháng : 2 = 1.444.500 đồng.

- Tiền lương D1 ngày vi phạm thời gian báo trước: (6.716.667 đồng/26 ngày) x 45 ngày = 11.625.000 đồng.

- Hoàn trả tiền tạm ứng trợ cấp thất nghiệp Công ty đã giao ngày 02/6/2017 với số tiền 9.437.400 đồng.

Tổng cộng: 22.506.900 đồng.

* Quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Bảo hiểm xã hội tỉnh B) có văn bản trình bày:

Quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của ông Phạm Văn T, như sau:

- Từ tháng 06/2006 đến tháng 10/2008 tham gia tại Công ty TNHH X. Công ty đã trích nộp bảo hiểm xã hội đến tháng 9/2008.

- Từ tháng 11/2008 đến tháng 7/2012 tham gia tại Công ty Cổ phần X. Công ty trích nộp bảo hiểm xã hội đến tháng 7/2010.

- Từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2012, tham gia tại Công ty Cổ phần X1.

* Quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần X1:

Công ty Cổ phần X1 (sau đây viết tắt là Công ty X1) vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không có bất cứ văn bản hay ý kiến nào gửi đến Tòa án.

* Quá trình tố tụng, người làm chứng ông Nguyễn Văn T2 trình bày:

Ông T2 làm việc xuyên suốt tại Công ty X2 tháng 12/2003 đến tháng 11/2016 thì ông T2 nghỉ việc.

Lúc ông T2 mới bắt đầu làm việc thì Công ty có tên gọi là Công ty TNHH X, nhưng sau đó do nhà nước quy hoạch đất giải tỏa đền bù nên Công ty TNHH X thay đổi địa chỉ như hiện nay là Đường D, khu công nghiệp P, khu phố D, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương và lấy tên gọi là Công ty Cổ phần X, ông T2 không nhớ rõ thời gian thay đổi địa chỉ và tên gọi của Công ty.

Ông T đã làm bảo vệ tại Công ty Cổ phần X trước ông T2 khoảng vài tháng. Từ đó ông T2 và ông T làm việc xuyên suốt cùng nhau tại Công ty X cho đến khi ông T2 nghỉ việc, sau đó thì ông T cũng nghỉ việc, nhưng lý do vì sao ông T nghỉ việc thì ông T2 không biết.

* Quá trình tố tụng, người làm chứng ông Tạ Thúc T3 trình bày:

Ông T3 làm nhân viên bảo vệ tại Công ty X2 tháng 10/2007 đến ngày 11/4/2017 thì ông T3 nghỉ việc. Lúc ông T3 mới bắt đầu làm việc thì Công ty có tên gọi là Công ty TNHH X, địa chỉ ban đầu tại ấp E, xã P, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Nhưng sau đó Công ty TNHH X thay đổi địa chỉ như hiện nay là đường D, khu công nghiệp P, khu phố D, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương và lấy tên gọi là Công ty Cổ phần X, ông T3 không nhớ rõ thời gian thay đổi địa chỉ và tên gọi của Công ty.

Khi ông T3 vào làm việc thì ông T đã làm bảo vệ tại Công ty Cổ phần X, ông T3 không biết ông T làm việc từ thời gian nào. Từ khi làm tại Công ty thì ông T3 và ông T làm việc cùng nhau xuyên suốt cho đến khi ông T nghỉ việc vào khoảng tháng 01/2017, lý do vì sao ông T nghỉ việc thì ông T3 không biết.

* Quá trình tố tụng, người làm chứng ông Lê Văn D trình bày:

Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 12/01/2017, ông T3 ca trưởng có giao nhiệm vụ cho ông Trung trực ở chốt, nhưng ông T không nhận nhiệm vụ và có vẻ chống đối, không thực hiện. Sự việc được báo cáo cho đội trưởng là anh H4 và anh H4 tiến hành lập biên bản sự việc và yêu cầu ông T ký vào biên bản là không chấp hành mệnh lệnh thì ông T không ký và tự ý bỏ về. Thời gian này, Giám đốc đi công tác không có mặt ở Công ty, khoảng hơn một tuần sau thì Giám đốc về, khi đó Giám đốc có yêu cầu ông D gọi ông T đến Công ty để giải quyết và sắp xếp công việc nhưng từ đó cho đến nay, ông T không đến Công ty.

Tại Bản án số 01/2023/LĐ-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T đối với bị đơn Công ty Cổ phần X về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” 2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T đối với bị đơn Công ty Cổ phần X về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội”.

Buộc bị đơn Công ty Cổ phần X có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm xã hội của ông Phạm Văn T tại bảo hiểm với số tiền bảo hiểm còn nợ và thời gian không tham gia bảo hiểm xã hội, với mức lương làm căn cứ đóng như sau:

- Giai đoạn từ tháng 8/2010 đến tháng 7/2012 như sau:

+ Từ tháng 8/2010 đến 12/2010; mức lương: 941.600đ (chín trăm bốn mươi mốt nghìn sáu trăm đồng).

+ Từ tháng 01/2011 đến tháng 9/2011; mức lương là 1.444.500đ (một triệu bốn trăm bốn mươi bốn nghìn năm trăm đồng) + Từ tháng 10/2011 đến tháng 7/2012; mức lương 2.140.000đ (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng).

- Giai đoạn từ ngày 15/7/2014 đến ngày 12/01/2017, cụ thể như sau:

+ Từ tháng 7/2014 đến tháng 12/2014; mức lương: 2.889.000đ (hai triệu tám trăm tám mươi chín nghìn đồng).

+ Từ 01/2015 đến tháng 12/2015; mức lương: 3.317.000đ (ba triệu ba trăm mười bảy nghìn đồng).

+ Từ 01/2016 đến tháng 01/2017; mức lương: 3.745.000đ (ba triệu bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

3. Đình chỉ yêu cầu phản tố bị đơn Công ty Cổ phần X đối với nguyên đơn ông Phạm Văn T về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Bị đơn Công ty Cổ phần X không có quyền khởi kiện lại theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của đương sự.

Ngày 13/6/2023, nguyên đơn ông Phạm Văn T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn xác định kháng cáo một phần bản án sơ thẩm và xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể yêu cầu Công ty X phải bồi thường những khoản tiền sau:

1. Tiền lương những ngày không được làm việc tạm tính từ ngày 12/01/2017 - 21/11/2018 (01 năm 10 tháng) với số tiền 143.000.000 đồng (6.500.000 đồng/tháng x 01 năm 10 tháng).

2. Bồi thường 02 tháng tiền lương: 6.500.000 đồng/tháng x 02 tháng = 13.000.000 đồng.

3. Bồi thường 45 ngày do vi phạm nghĩa vụ báo trước: 216.667 đồng/ngày x 45 ngày = 9.750.000 đồng.

4. Yêu cầu Công ty phải đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho ông T trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 12/01/2017 - 21/11/2018 (01 năm 10 tháng) = số tiền 26.776.750 đồng (3.475.000 đồng/tháng x 01 năm 10 tháng).

Đối với những phần khác của bản án sơ thẩm nguyên đơn không kháng cáo.

- Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

- Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Nguyễn Doãn H1 vắng mặt, tuy nhiên ông H1 đã cung cấp văn bản trình bày quan điểm pháp lý (ghi ngày 28/12/2023) như sau:

Trong quá trình làm việc tại Công ty X, nguyên đơn luôn tuân thủ đúng nội quy và quy chế của Công ty, không vi phạm hoặc bị áp dụng bất kỳ hình thức kỷ luật lao động nào của Công ty X. Tháng 01/2017, nguyên đơn đang làm việc tại Công ty X, thì phía Công ty X đột ngột buộc nguyên đơn phải thôi việc mà không có lý do và không cho nguyên đơn đến Công ty X làm việc. Sau đó nguyên đơn nhiều lần đến Công ty X yêu cầu được gặp Ban lãnh đạo Công ty để giải quyết, nhưng bảo vệ của Công ty X ngăn cản không cho vào.

Tại Biên bản sự việc ngày 12/01/2017, ông Tạ Thúc T3 là ca trưởng cho rằng nguyên đơn “không nghe sự chỉ đạo, không chấp hành ca trưởng, không nhận thức trong công việc” nên ca trưởng trả nguyên đơn cho đội trưởng (ông Nguyễn Thế H5) xử lý. Tại Tờ trình ngày 19/12/2017, ông Nguyễn Thế H5 đã đình chỉ công việc đối với nguyên đơn và không cho nguyên đơn đến Công ty X làm việc, tuy nhiên ông Tạ Thúc T3 và ông Nguyễn Thế H5 hoàn toàn không có quyền đình chỉ công việc đối với nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn không tự ý nghỉ việc, mà do Công ty X đã buộc nguyên đơn thôi việc không thông báo lý do, vì vậy Công ty X đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bị đơn.

Do Công ty X đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bị đơn, vì vậy Công ty phải giải quyết hậu quả của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án lao động sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng.

- Về nội dung: Công ty X thừa nhận nguyên đơn vị phạm nội quy, không chấp hành sự điều động của ca trưởng, bị lập biên bản nhưng nguyên đơn không đồng ý ký tên và bỏ về, bị ca trưởng tạm đình chỉ công việc của nguyên đơn đến nay, Công ty X không tiến hành bất kỳ hình thức xử lý gì về vi phạm của nguyên đơn. Việc Công ty X lập biên bản vi phạm đối với ông T nhưng không xử lý hành vi vi phạm của ông T là không đúng trình tự thủ tục theo quy định Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012, mục 12 Điều 1 Nghị định 148/2018/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động năm 2012. Như vậy, Công ty X có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2012, do đó Công ty X phải có trách nhiệm bồi thường cho nguyên đơn theo quy định Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012.

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan, toàn diện về những tài liệu, chứng cứ, tình tiết của vụ án, ý kiến của các đương sự, ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn T được thực hiện trong thời hạn luật định, nên việc kháng cáo là hợp lệ.

[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bảo hiểm xã hội”, bị đơn có trụ sở tại thành phố T nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương là bà Ngô Thị Mộng H3 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; người làm chứng ông Nguyễn Văn T2, ông Tạ Thúc T3, ông Lê Văn D vắng mặt không lý do; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty X1, vắng mặt không lý do, mặc dù Tòa án đã thực hiện các thủ tục tố tụng để đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Căn cứ Điều 227, 228, 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này.

[1.4] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Công ty X phải bồi thường những khoản tiền sau: Tiền lương những ngày không được làm việc tạm tính từ ngày 12/01/2017 - 21/11/2018 (01 năm 10 tháng) với số tiền 143.000.000 đồng (6.500.000 đồng/tháng x 01 năm 10 tháng); bồi thường 02 tháng tiền lương: 6.500.000 đồng/tháng x 02 tháng = 13.000.000 đồng; bồi thường 45 ngày do vi phạm nghĩa vụ báo trước: 216.667 đồng/ngày x 45 ngày = 9.750.000 đồng; yêu cầu Công ty phải đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 12/01/2017 - 21/11/2018 (01 năm 10 tháng) = số tiền 26.776.750 đồng (3.475.000 đồng/tháng x 01 năm 10 tháng), các phần khác không yêu cầu. Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về nội dung: Nguyên đơn, bị đơn thống nhất xác định ngày 15/7/2014, nguyên đơn, bị đơn có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc của bị đơn làm bảo vệ. Từ ngày 12/01/2017 đến nay nguyên đơn không còn làm việc tại trụ sở bị đơn.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

[3.1] Nguyên đơn cho rằng ngày 12/01/2017, nguyên đơn đi làm bình thường, bị đơn đột ngột cho nguyên đơn thôi việc mà không có lý do và không cho nguyên đơn đến công ty làm việc mặc dù nguyên đơn đã nhiều lần đến Công ty yêu cầu gặp lãnh đạo để giải quyết, nhưng bảo vệ không cho vào, do đó nguyên đơn đã khiếu nại hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty X đến Ban quản lý các khu công nghiệp. Kết quả giải quyết: Tại Biên bản số 36/BB-ĐD ngày 03/10/2017 của Ban quản lý các khu công nghiệp, Công ty đã đồng ý hỗ trợ cho nguyên đơn 02 tháng tiền lương cơ bản với số tiền 8.024.000 đồng, nhưng Công ty không thực hiện theo thỏa thuận.

[3.2] Bị đơn cho rằng, ngày 12/01/2017 trong ca trực nguyên đơn đã vi phạm nội quy, không chấp nhận sự điều động của ca trưởng, bị lập Biên bản vào ngày 12/01/2017 như “không nghe sự chỉ đạo, không chấp hành lệnh, không nhận thức trong công việc” nhưng nguyên đơn không ký biên bản vi phạm và tự ý bỏ về, nên ca trưởng tạm thời đình chỉ công việc của nguyên đơn.

[3.3] Xét, tại Biên bản sự việc ngày 12/01/2017 do ca trưởng ông Tạ Thúc T3 là người lập biên bản với nội dung:

“Bảo vệ Phạm Văn T không nghe sự chỉ đạo + không chấp hành ca trưởng, không nhận thức trong công việc.

Nay ca trưởng trả bảo vệ Phạm Văn T cho đội trưởng để xử lý”, biên bản không có chữ ký của nguyên đơn. Ngày 13/12/2017, Đội trưởng đội bảo vệ là ông Nguyễn Thế H5 đã làm Tờ Trình gởi Ban lãnh đạo Công ty X báo cáo sự việc và tạm thời đình chỉ đối với nhân viên Phạm Văn T.

Quá trình tố tụng, người làm chứng xác định ngày 12/01/2017, ông T3 ca trưởng có giao nhiệm vụ cho ông Trung trực ở chốt, nhưng ông T không chấp hành, đội trưởng đội bảo vệ tiến hành lập biên bản sự việc và yêu cầu ông T ký vào biên bản là không chấp hành mệnh lệnh thì ông T không ký và tự ý bỏ về, điều này phù hợp với lời trình bày của Công ty X. Như vậy, nguyên đơn có hành vi vi phạm nội quy của Công ty.

Tại phiên tòa, nguyên đơn thừa nhận ngày 12/01/2017, nguyên đơn đang làm việc tại Công ty B1 thì ca trưởng yêu cầu nguyên đơn đi về nhưng không cho biết lý do và nguyên đơn đã bỏ về khi chưa có ý kiến hay văn bản của người có thẩm quyền của Công ty, nguyên đơn cũng thừa nhận từ ngày 12/01/2017 đến nay, bị đơn không ban hành quyết định nào cho nguyên đơn nghỉ việc và nguyên đơn cũng không đến công ty làm việc, như vậy nguyên đơn đã tự ý bỏ việc.

Nguyên đơn cho rằng, mấy ngày sau nguyên đơn đến Công ty X đề gặp giám đốc giải quyết nhưng bảo vệ không cho vào, nhưng nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh.

[3.4] Nguyên đơn đã khiếu nại hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty X đến Ban quản lý các khu công nghiệp. Kết quả giải quyết: Tại Biên bản số 36/BB-ĐD ngày 03/10/2017 của Ban quản lý các khu công nghiệp, Công ty X đã đồng ý hỗ trợ cho nguyên đơn 02 tháng tiền lương cơ bản với số tiền 8.024.000 đồng, ngoài ra Công ty X không thừa nhận có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn.

[4] Từ những căn cứ nêu trên, việc nguyên đơn cho rằng Công ty X có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với nguyên đơn là không có cơ sở. Vì vậy, việc nguyên đơn yêu cầu Công ty X phải bồi thường những khoản tiền liên quan đến hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nêu trên là không có căn cứ chấp nhận.

[5] Đối với những phần khác của bản án, đương sự không kháng cáo nên phát sinh hiệu lực.

[6] Xét ý kiến của Đại diện viện kiểm sát không có căn cứ chấp nhận.

[7] Án phí phúc thẩm: Người kháng cáo được miễn nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Thành T4.

2. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 01/2023/LĐ-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T đối với bị đơn Công ty Cổ phần X về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

3. Đối với những phần khác của bản án không kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí lao động phúc thẩm: Ông Phạm Văn T được miễn nộp.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bảo hiểm xã hội số 01/2024/LĐ-PT

Số hiệu:01/2024/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:03/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về