TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 887/2023/LĐ-PT NGÀY 28/08/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Trong các ngày 04; 22 và 28 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 42/2023/TLPT-LĐ ngày 03 tháng 7 năm 2023 về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 1003/2023/LĐ-ST ngày 11/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2870/2023/TLPT-LĐ ngày 17/7/2023 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 10586/2023/QĐPT-LĐ ngày 04/8/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Tô Thị Bích H; sinh năm: 1972.
Địa chỉ: Thôn D, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Công B, sinh năm: 1954.
Địa chỉ: B đường A, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 14/11/2022).
- Bị đơn: Trường Mầm non M.
Trụ sở trường: Tầng 2, tầng 3 khối D Chung cư T, khu dân cư cao cấp G, số E Đ, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hoài L, sinh năm: 1981.
Địa chỉ: Tầng B, tầng C khối D Chung cư T, khu dân cư cao cấp G, số E Đ, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 16/3/2023) Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Tô Thị Bích H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 13/6/2022, đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 05/7/2022, ngày 06/7/2022 của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H (Tô Thị H), lời khai tại Tòa án và trong quá trình xét xử của ông Phạm Công B là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 03 tháng 11 năm 2018, bà Tô Thị Bích H (Tô Thị H) là nhân viên làm tạp vụ thuộc tổ phục vụ tại Trường Mầm non M, địa chỉ: Tầng B khối D Chung cư T, khu dân cư cao cấp G, số E Đ, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 6/2019, bà H mới được T cho ký hợp đồng lao động lần thứ nhất (lần 1) và được tham gia đóng bảo hiểm xã hội.
Tháng 01/2020, bà H được T ký tiếp hợp đồng lao động lần thứ 02.
Ngày 02/01/2021, bà H được tiếp tục ký hợp đồng lần thứ 03, Hợp đồng số: 27/HĐTĐ-MTAC, thời hạn hợp đồng từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021.
Tháng 7/2021, do dịch Covid 19 Trường tạm ngưng hoạt động dạy học nhưng các nhân viên vẫn thay phiên nhau đến trực và làm vệ sinh tại T trong lịch trực có bà H. Đến ngày 31/8/2021, thực hiện Chỉ thị 16 của Chính phủ tất cả đều nghỉ đến khoảng trung tuần tháng 10/2021. Khi Chỉ thị 16 được nới lỏng thì T (cô L1 là Hiệu trưởng T) lại tiếp tục báo nhân viên đi trực trở lại. Do học sinh Mầm non chưa được đến T nên chỉ bố trí một số nhân viên đến làm vệ sinh. Trong đó, cô L1 có gọi điện thoại cho bà H thông báo và hỏi bà H có đi làm đợt này được không. Bà H trả lời là có đi làm được, nhưng rồi cũng không thấy báo lại để đi làm và chỉ thấy có một số người đi làm.
Ngày 16/11/2021, do T vẫn không bố trí được cho bà H đi làm đợt này nên bà H đã về quê tại thị xã S, tỉnh Phú Yên để làm căn cước công dân và bà H đã bị nhiễm Covid 19 phải cách ly tập trung 15 ngày tại bệnh viện thị xã S, tỉnh Phú Yên. Khi đó, bà H có báo về cho T biết, trực tiếp là cô Phạm Thị Lệ bộ p hành chính nhận thông tin. T đã có nhận thông tin nhưng không có ý kiến gì và không có lời thăm hỏi.
Ngày 04/02/2022 (cũng là ngày mùng 04 tết âm lịch) cô L1 là quản lý trực tiếp tại T có thông báo cho bà H qua điện thoại yêu cầu trở về Thành phố Hồ Chí Minh để ngày 09/02/2022 họp mặt Trường đầu năm.
Ngày 06/02/2022, bà H đã di chuyển từ thị xã S, tỉnh Phú Yên về Thành Phố Hồ Chí Minh thì ngày 07/02/2022 cô L2 là quản lý bộ phận của T điện báo lại cho bà H là bà H chưa được đi làm đợt này, và nói bà H nên tự tìm kiếm việc gì đó làm đỡ đi.
Buổi sáng ngày 23/02/2022, bà H đã điện thoại tới hệ thống chính của T để muốn trực tiếp gặp chủ trường bà Lý Thị Ngọc T1 người ký hợp đồng lao động với bà H hỏi về việc làm của bà H, đã được bộ phận lễ tân nhận thông tin và hẹn để liên hệ với chủ trường rồi gặp lại sau. Đến khoảng hơn 12 giờ trưa cùng ngày, cô L1 là quản lý trực tiếp tại cơ sở T điện thoại cho bà H thông báo, hiện tại do các cháu chưa đi học nhiều nên chưa có đủ lớp học vì thế hiện tại Nhà trường chưa thể bố trí cho bà H đi làm đợt này được nên bà H xem kiếm việc làm khác mà làm, còn việc lỡ gọi bà H vô để làm giờ không bố trí được việc làm cho bà H thì tiền xe bà H đi hết bao nhiêu cô L1 nói bộ phận kế toán cân đối trả lại cho bà H.
Đến 14 giờ 37 phút, cô L2 là quản lý bộ phận lại gọi cho bà H báo đến để đi làm. Bà H đã nói là: “Cô L1 mới nói không thể bố trí cho tôi đi làm nữa” nên bà H có yêu cầu, nếu không bố trí được việc làm cho bà H thì phải cho bà H quyết định nghỉ việc bằng văn bản để bà H mới có cơ sở đi xin việc làm chứ các cô cứ nói bằng miệng không à. Và cô L2 đã nói, nếu bà H không đi làm nữa thì hẹn bà H đến 10 giờ 00 ngày 25/02/2022, tới văn phòng nhận quyết định nghỉ việc và thanh toán chế độ.
Đúng 10 giờ 00 ngày 25/02/2022, bà H tới văn phòng làm việc của Trường Mầm non M theo lịch hẹn. Khi tới gặp nhân viên bộ phận hành chính cô Phạm Thị L3 có đưa cho bà H tờ đơn xin nghỉ việc đã đánh máy sẵn (hình thức là đơn mẫu các dòng nội dung để trống) nói: “Cô ký vào đây để thanh toán và lấy quyết định”. Sau khi bà H ký xong vào tờ giấy đó thì cô L3 đã trao cho bà H 01 quyết định nghỉ việc và 01 tờ rời quá trình đóng Bảo hiểm xã hội cùng tờ biên nhận giao tài liệu với bà H ký giao nhận. Ngoài ra, không có thanh toán bất cứ chế độ gì khác, (mọi diễn biến ngày nhận quyết định bà H có ghi âm đầy đủ).
Khi nhận quyết định thôi việc, bà H thấy Quyết định ký ngày 30/9/2021 và ngày nghỉ việc từ ngày 01/10/2021. Bà H nhận thấy quyền, lợi ích hợp pháp của bà H đã bị xâm hại nên bà H đã đưa vụ việc lên ban hòa giải lao động thành phố T giải quyết tranh chấp nhưng hòa giải không thành.
Quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại cụ thể là:
- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 20 Bộ luật lao động 2019, Hợp đồng lao động ký lần thứ 03 giữa Trường Mầm non M với bà Tô Thị Bích H vẫn còn là hợp đồng có xác định thời hạn là hợp đồng vi phạm.
- Căn cứ Điều 39 Bộ luật lao động năm 2019, Quyết định cho bà Tô Thị Bích H thôi việc số: 29/21/QĐ/MTAC ký ngày 30/9/2021 của Trường Mầm non M đã vi phạm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật lao động năm 2019, áp dụng tại (Điều 8 Nghị định 145) Trường Mầm non M không chi trả trợ cấp mất việc làm cho bà H là vi phạm.
Vẫn giữ yêu cầu khởi kiện là tuyên Quyết định số: 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 trái pháp luật. Nguyên đơn không quay trở lại làm việc. Yêu cầu Trường Mầm non M, căn cứ vào Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 bồi thường cho bà H theo khoản 2 Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 cụ thể như sau:
+ Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 cho cơ quan bảo hiểm có thẩm quyền là: 4.673.000 đồng x 18 tháng x 21,5% = 18.084.510 đồng.
+ Phải trả tiền lương cho những ngày không được làm việc từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 là: 4.673.000 đồng x 18 tháng = 84.114.000 đồng.
Trước đây, theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn yêu cầu về số tháng đóng bảo hiểm và tiền lương những ngày không được làm việc là tạm tính.
+ Số tiền phải trả thêm một khoản tương đương 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 đồng x 06 tháng = 28.038.000 đồng.
+ Yêu cầu Trường Mầm non M chi trả bồi thường cho bà Tô Thị Bích H theo Điều 47 Bộ luật lao động năm 2019 và được áp dụng tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 có hiệu lực ngày 01/01/2021 cụ thể như sau: Số tiền phải chi trả trợ cấp mất việc làm tương đương với 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 x 06 tháng = 28.038.000 đồng.
Tổng cộng: 158.274.510 đồng. Trả một lần ngay khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật.
Đối với Quyết định số: 09/22/QĐ/MTAC ngày 06/4/2022 của Trường Mầm non M về việc cho thôi việc và chấm dứt hợp đồng đối với bà H mà bị đơn cung cấp ngày 17/3/2023 thì phía nguyên đơn không có ý kiến, không có yêu cầu khởi kiện quyết định này.
Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, phía nguyên đơn có Bản tự khai, đơn sửa đổi, bổ sung nội dung khởi kiện ghi ngày 27/3/2023. Trong nội dung có bổ sung yêu cầu Trường Mầm non M chi trả bồi thường cho bà H trong những ngày không được báo trước là 45 ngày với số tiền 7.009.500 đồng. Ngày 29/3/2023, nguyên đơn đã có đơn rút khởi kiện đối với yêu cầu ngày 27/3/2023. Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thống nhất với việc nguyên đơn rút yêu cầu này.
Bị đơn là Trường Mầm non M đo bà Phạm Thị Hoài L là đại diện theo ủy quyền trình bày như sau:
Ảnh hưởng dịch Covid-19, thời điểm tháng 5/2021 T đã thực hiện theo đúng chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo Thành phố T về việc đóng cửa trường học. Điều này đồng nghĩa với việc T không có bất kỳ nguồn thu nào trong thời gian người lao động không đến làm việc nhưng T vẫn chi trả lương cho người lao động. Cụ thể đối với bà H, như sau: Tháng 5/2021, trả lương 5.385.605 đồng; Từ tháng 6/2021 đến tháng 10/2021 hỗ trợ mỗi tháng 2.424.105 đồng.
Tình hình dịch diễn biến phức tạp, từ phía Phòng Giáo dục và Đào tạo chưa có câu trả lời chính thức về việc khi nào Trường học được phép mở của hoạt động trở lại. Trong tình hình T không hoạt động và không có nguồn thu nào để chi trả lương cho người lao động Nhà trường đã tổ chức nhập Hội đồng sư phạm cùng tập thể Nhà trường với hình thức họp trực tuyến vào lúc 14 giờ 30 phút, ngày 01/9/2021. Nội dung cuộc họp: Thông báo về việc chấm dứt Hợp đồng lao động với một số cán bộ, giáo viên, nhân viên trường từ 01/10/2021. Ngoài ra, sau khi nghỉ không lương từ 01/8/2021, Nhà trường thực hiện hồ sơ hưởng trợ cấp xã hội cho người lao động trong đó có bà H theo Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 (hưởng 3.710.000 đồng) và trợ cấp theo Nghị quyết 116/NQ-CP ngày 01/10/2021 (hưởng 2.100.000 đồng) đối với thời gian tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của bà H.
Ngày 07/10/2021, họp Hội đồng sư phạm Nhà trường vào lúc 14 giờ. Nội dung: Thông báo về việc người lao động liên hệ T để nhận hồ sơ bảo hiểm xã hội kèm quyết định nghỉ việc. Ngày 13/01/2022, họp Hội đồng sư phạm Nhà trường. Nội dung họp: Thông báo về việc đi làm lại sau Tết do học sinh đi học lại chỉ 1/3 sỉ số nên Nhà trường chia làm 2 đợt nhận việc. Đợt 1: tháng 02/2022. Đợt 2: tháng 3/2022.
Ngày 23/02/2022, Nhà trường đã liên hệ với bà H mời bà đến T làm việc lại từ 01/3/2022. Mời lần 1, gọi điện thoại (tổ trưởng chuyên môn gọi nhận việc). Mời lần 2, bằng thư mời (bảo vệ gửi tận nhà) nhưng bà H từ chối nhận thư và cũng không đến nhận việc. Sau đó, bà H có nguyện vọng xin nghỉ việc. Nhà trường đã đồng ý theo nguyện vọng của bà H.
Ngày 06/4/2022, đại diện Nhà trường và ông B là đại diện theo ủy quyền của bà H thỏa thuận, phía bà H đồng ý nhận số tiền 10.200.000 đồng do Nhà trường hỗ trợ cho bà H và cam kết không tranh chấp gì thêm liên quan vấn đề nghỉ việc của bà H. Bên bà H đồng ý nghỉ việc từ ngày 25/02/2022, không trùng với dữ liệu cơ quan bảo hiểm xã hội ghi nhận. Nhà trường không chịu trách nhiệm trong trường hợp chưa đủ điều kiện làm hồ sơ trợ cấp thất nghiệp. Ông B ký, ghi đã nhận đủ số tiền trên và ghi: “Trường hẹn trả sau quyết định nghỉ việc vào ngày 07/4/2022”, thỏa thuận kết thúc sự việc nhưng sau đó phía bà H không đến nhận quyết định thôi việc như thỏa thuận.
Do đó, Nhà trường không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, không có ý kiến yêu cầu gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: thụ lý đúng quy định theo thẩm quyền, vi phạm thời hạn đưa vụ án ra xét xử, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng nội dung, thành phần xét xử, đúng thời gian, địa điểm. Về nội dung: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 1003/2023/LĐ-ST ngày 11/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Áp dụng khoản 3 Điều 34 Bộ luật lao động năm 2019.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H (Tô Thị H) về việc yêu cầu Tòa án tuyên Quyết định số: 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 cửa Trường Mầm non M về việc cho thôi việc và chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H (Tô Thị H) về việc yêu cầu:
- Yêu cầu Trường Mầm non M, căn cứ vào Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 bồi thường cho bà H theo khoản 2 Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 cụ thể như sau:
+ Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 cho cơ quan bảo hiểm có thẩm quyền là: 4.673.000 đồng x 18 tháng x 21,5% = 18.084.510 đồng.
+ Phải trả tiền lương cho những ngày không được làm việc từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 là: 4.673.000 đồng x 18 tháng = 84.114.000 đồng.
+ Số tiền phải trả thêm một khoản tương đương 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 đồng x 6 tháng = 28.038.000 đồng.
+ Yêu cầu Trường Mầm non M chi trả bồi thường cho bà Tô Thị Bích H theo Điều 47 Bộ luật lao động năm 2019 và được áp dụng tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ - CP ngày 14/12/2020 có hiệu lực ngày 01/01/2021 cụ thể như sau: Số tiền phải chi trả trợ cấp mất việc làm tương đương với 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 x 6 tháng = 28.038.000 đồng.
Tổng cộng: 158.274.510 đồng. Trả một lần ngay khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật.
2. Về án phí sơ thẩm:
Bà Tô Thị Bích H (Tô Thị H) thuộc trường hợp miễn nộp tiền án phí theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Trường Mầm non M không phải chịu án phí.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Ngày 17/4/2023, ông Phạm Công B là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 02/8/2023 bà Tô Thị Bích H nộp đơn xác nhận việc kháng cáo bản án sơ thẩm do người đại diện nộp là đúng với ý chí của bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn bà Tô Thị Bích H và người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Công B xác định không rút đơn khởi kiện; vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm áp dụng pháp luật giải quyết vụ án là không đúng. Hợp đồng lao động cuối cùng của bà H với trường phải là hợp đồng hợp đồng lao động không xác định thời hạn vì trường đã ký với bà H đến 03 hợp đồng có xác định thời hạn. Đồng thời cho rằng quyết định cho bà Tô Thị Bích H thôi việc số: 09/22/QĐ/MTAC ngày 06/4/2022 của Truông Mầm non M có căn cứ là không chính xác, vì trường đã ban hành Quyết định số 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 sau đó trường lại ban hành tiếp Quyết định số: 09/22/QĐ/MTAC ngày 06/4/2022 cho thôi việc bà H lần nữa là không đúng quy định pháp luật.
Do đó, nguyên đơn đề nghị cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên Quyết định cho bà Tô Thị Bích H thôi việc số: 29/21/QĐ/MTAC ký ngày 30/9/2021 của Truông Mầm non M là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và trường phải bồi thường cho bà H theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019 trên mức lương 4.673.000 đồng/tháng từ ngày 01/10/2021 đến 31/3/2023 là ngày chấm dứt hợp đồng lao động, bao gồm:
+ Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 cho cơ quan bảo hiểm có thẩm quyền là: 4.673.000 đồng x 18 tháng x 21,5% = 18.084.510 đồng.
+ Phải trả tiền lương cho những ngày không được làm việc từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 là: 4.673.000 đồng x 18 tháng = 84.114.000 đồng + Số tiền phải trả thêm một khoản tương đương 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 đồng x 06 tháng = 28.038.000 đồng + Yêu cầu Trường Mầm non M chi trả bồi thường cho bà Tô Thị Bích H theo Điều 47 Bộ luật lao động năm 2019 và được áp dụng tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ - CP ngày 14/12/2020 có hiệu lực ngày 01/01/2021 cụ thể như sau: Số tiền phải chi trả trợ cấp mất việc làm tương đương với 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 x 06 tháng = 28.038.000 đồng.
Thi hành trả toàn bộ số tiền nêu trên một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn Trường Mầm non M có người đại diện theo ủy quyền là bà Phạm Thị Hoài L xác định không kháng cáo bản án sơ thẩm; không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký và các bên đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về yêu cầu kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị đơn là trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung:
+ Bà H cho rằng Hợp đồng lao động số 36 ngày 02/01/2020 do bà H ký với Trường Mầm non M là hợp đồng giả mạo chữ ký người lao động. Xét thấy, theo văn bản số 3116/BHXH-THU ngày 19/12/2022 của Bảo hiểm xã hội thành phố T xác nhận bà H tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, ...với chức danh công việc tạp vụ, Trường M từ tháng 01/2020 đến tháng 8/2020 mức đóng là 4.450.000 đồng; tháng 9/2020 đến tháng 7/2021 mức đóng là 4.673.000 đồng. Từ tháng 8/2021 đến tháng 9/2021 nghỉ làm không lương. Tại phiên tòa ngày 11/4/2023 bà H và ông B đều thừa nhận bà H ký hợp đồng lao động số 36 từ ngày 02/01/2020 đến 30/6/2021. Do đó, yêu cầu hủy bản án sơ thẩm của bà H với lý do trên là không có căn cứ.
+ Trường M ban hành Quyết định số 47/22/QĐ/MTAC ghi ngày 06/4/2022 làm chứng cứ trong vụ án là văn bản vô căn cứ trái đạo đức xã hội, vi phạm về hình thức mà Hội đồng xét xử bỏ qua việc xem xét chi tiết chứng cứ trong nghiệp vụ xét xử để áp dụng các quy định pháp luật, nên đã cho là văn bản hợp lệ, có căn cứ hợp pháp để ra Quyết định số 47 cho bà H thôi việc, đây là hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, gây bất lợi cho việc xem xét giải quyết vụ án cho người lao động: Trong hồ sơ vụ án không có Quyết định số 47 ngày 06/4/2022 do Trường M ban hành, nên không có căn cứ xem xét.
+ Căn cứ đơn xin nghỉ việc ngày 01/9/2021 thì bà H có ký tên đồng Ý vào đơn trên, xin thôi việc từ ngày 01/10/2021, lý do cá nhân. Như vậy, Trường M ra Quyết định số 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 về việc giải quyết cho thôi việc đối với bà H kể từ ngày 01/10/2021 (Quyết định số 29); Ngày 06/4/2022 bà H với Trường M hỗ trợ cho bà H số tiền 10.200.000 đồng, bà H đồng ý nghỉ việc từ ngày 01/10/2021 (kèm theo biên bản thỏa thuận có ông B ký nhận tiền), nên Trường Á C ban hành Quyết định số 09/QĐ-MTAC thay thế Quyết định số 29. Từ những căn cứ trên xác định Trường M và bà H thuộc trường hợp thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động được quy định tại khoản 3 Điều 34 Bộ luật Tao động 2019, do đó không có cơ sở chấp nhận yêu cầu hủy Quyết định số 29.
+ Yêu cầu Trường M cung cấp văn bản đơn xin nghỉ việc do bị đơn đã in sẵn đưa cho bà H ký ngày 25/02/2022 nói là ký để thanh toán, mà bị đơn trưng ra làm chứng cứ tại phiên họp hòa giải ngày 18/3/2023 văn bản thỏa thuận nghỉ không lương để được so sánh chữ ký của nguyên đơn đã ký với các văn bản mà bị đơn mới cung cấp cho Tòa án làm chứng cứ: Yêu cầu này không có căn cứ vì bà H thừa nhận tại phiên tòa sơ thẩm đã ký đơn xin thôi việc và ký văn bản thỏa thuận nghỉ việc không lương.
Ngày 20/3/2023 Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức ban hành Quyết định số 1005 đưa vụ án “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, Thụ lý số 42 ngày 11/10/2022 ra xét xử ngày 11/4/2023, ngày 27/3/2023 bà H làm đơn bổ sung, yêu cầu khởi kiện yêu cầu buộc Trường M bồi thường cho bà H trong những ngày không được báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, đến ngày 29/3/2023 bà H có đơn rút yêu cầu khởi kiện nội dung trên, yêu cầu này chưa được Tòa án thụ lý nên không xem xét, nhưng tại Bản án sơ thẩm 1003 Tòa án chưa nhận định phần nội dung.
Tại phiên tòa ngày 04/8/2023, bà H cung cấp bản sao giấy khai sinh tên Tô Thị Bích H- sinh ngày 13/5/1972. Ngày 07/8/2023, bà H tiếp tục cung cấp giấy xác nhận số Chứng minh nhân dân do Công an thị xã s xác nhận: Ngày 27/01/2022, Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp thẻ Căn cước công dân số: 054172008518, họ và tên Tô Thị Bích H- sinh ngày 13/5/1972, nơi thường trú Thôn G, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Ông/bà có tên nêu trên đã được: Công an tỉnh P cấp CMND số: 220768433, cấp ngày 06/8/2012, họ tên: Tô Thị H, sinh năm 1972. Nội dung này chưa được Tòa cấp sơ thẩm làm rõ và nhận định tại Bản án số 1003/2023/TĐ-ST ngày 11/4/2023.
Bởi các lẽ trên: Không chấp nhận kháng cáo của bà H. Căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS 2015: Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với yêu cầu buộc Trường M bồi thường cho bà H trong những ngày không được báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, yêu cầu này bà H đã rút vào ngày 29/3/2023 và chưa được Tòa án thụ lý.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, giải thích pháp luật và động viên các bên hòa giải nhưng không thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
Về hình thức: Ngày 11/4/2023, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên án vụ án.
Ngày 17/4/2023, ông Phạm Công B là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 02/8/2023 bà Tô Thị Bích H nộp đơn xác nhận việc kháng cáo bản án sơ thẩm do người đại diện nộp là đúng với ý chí của bà H.
Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, đơn kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn là bà Tô Thị Bích H cùng bị đơn là Trường Mầm non M cùng xác định bà Tô Thị Bích H đúng là người lao động có ký kết hợp đồng lao động và tham gia quan hệ lao động với trường theo tên cá nhân của bà H la Tô Thị H.
Theo lời trình bày của Bà Tô Thị Bích H cùng chứng cứ là xác nhận số 16/GXA ngày 07/8/2023 của Công an thị xã S, tỉnh Phú Yên được bà H nộp cho Tòa án ngày 22/8/2023, xác định bà Tô Thị Bích H có căn cước công dân số 054172008518 trước đây là bà Tô Thị H có Chứng minh nhân dân số 220768433. Đây là tài liệu về nhân thân mới được cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự thực hiện và cung cấp.
Tuy nhiên, việc xác định người có tên là Tô Thị Bích H, sinh ngày 13/5/1972 và người có tên Tô Thị H, sinh ngày 15/3/1972 là một người hay không thì Tòa án không có thẩm quyền xác định và ghi nhận trong bản án. Việc liên quan đến điều chỉnh hộ tịch của cá nhân bà H sẽ do bà H tự liên hệ các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết để bà H điều chỉnh các hồ sơ, tài liệu liên quan về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp... Hội đồng xét xử sẽ điều chỉnh tên của nguyên đơn trong bản án sơ và phúc thẩm đúng như đơn khởi kiện và không tự ghi nhận tên Tô Thị Bích H và Tô Thị H là một người như cấp sơ thẩm ghi nhận trong bản án là Tô Thị Bích H (Tô Thị H). cấp sơ thẩm cần phải lưu ý rút kinh nghiệm nội dung này vì không thể tự xác nhận hai tên nêu trên là của một người khi không thuộc thẩm quyền cũng như chưa đủ tài liệu chứng cứ để ghi nhận trong bản án.
Do bà Tô Thị Bích H và Trường Mầm non M xác định bà Tô Thị Bích H và bà Tô Thị H là cùng một người trong cùng một quan hệ lao động theo hợp đồng lao động đã ký kết với nhau, cũng như có tranh chấp. Do đó, Tòa án vẫn xem xét giải quyết tranh chấp và yêu cầu kháng cáo theo quy định pháp luật.
Xét kháng cáo của nguyên đơn:
Đối với nội dung cho rằng trường ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với bà Tô Thị H số 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động pháp luật:
- Xét hợp đồng lao động của bà Tô Thị Bích H và Trường Mầm non M:
+ Căn cứ lời khai, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và văn bản số 3116/BHXH-THU ngày 19/12/2022 của Bảo hiểm xã hội thành phố T gửi cho Tòa án có căn cứ xác định giữa bà H và trường có quan hệ lao động và hợp đồng lao động giữa hai bên là hợp đồng có xác định thời hạn. Hợp đồng lao động cuối cùng là Hợp đồng số: 27/HĐLĐ-MTAC, thời hạn hợp đồng từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021. Thời gian làm việc của bà H từ tháng 12 năm 2019 trở về trước thì bà H ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động khác và có tư cách pháp nhân độc lập với Trường Mầm non M (là Công ty TNHH B1). Do đó, không thể xác định hợp đồng lao động số 27/HĐLĐ-MTAC là hợp đồng không xác định thời hạn như nguyên đơn trình bày.
+ Xét tại phiên tòa, các bên đương sự xác định từ tháng 08/2021 giữa bà H và trường cùng thỏa thuận để bà H nghỉ việc không lương do tình hình dịch bệnh C1; Trong tháng 09/2021 trường có họp trực tuyến về việc sẽ chấm dứt hợp đồng lao động đối với một số người lao động trong đó có bà H. Tuy nhiên, về nội dung thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động với bà H thì bà H không thừa nhận và cho rằng không biết việc trường sẽ cho bà nghỉ việc.
+ Xét tại phiên tòa, xác bên đương sự xác định từ tháng 08/2021 đến tháng 02/2022 bà H không làm việc tại trường do dịch bệnh và đến ngày 25/02/2022 bà H đến trường và ký đơn xin nghỉ việc theo mẫu sẵn có của trường. Bà H xác nhận có ký đơn nhưng không biết nội dung trong đơn là gì do bà H không biết chữ. Sau đó, bà H nhận Quyết định số 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 cho bà nghỉ việc từ ngày 01/10/2021. Bà H có nộp đơn khiếu nại và được Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T hòa giải tranh chấp lao động nhưng không thành.
+ Xét tại phiên tòa và tài liệu trong hồ sơ vụ án, bà H xác nhận có ủy quyền cho ông Phạm Công B và nhờ ông B đại diện cho mình làm việc, thỏa thuận hòa giải và tranh chấp với trường về lao động từ khi bà nhận quyết định nghỉ việc. Do đó, ngày 06/4/2022 giữa trường và ông Phạm Công B đại diện cho bà H thỏa thuận giải quyết tranh chấp lao động, việc thỏa thuận được lập thành biên bản và có chữ ký của các bên. Ngoài ra, bà H có lập văn bản ủy quyền ngày 18/3/2022 tại Văn phòng C2, thành phố T cho ông Phạm Công B đại diện mình tranh chấp với trường và ngày 14/11/2022 bà H tiếp tục ủy quyền cho ông Phạm Công B đại diện mình tham gia tố tụng tại Tòa án. Như vậy, có cơ sở xác định văn bản thỏa thuận giữa trường và ông B ngày 06/4/2022 là có căn cứ pháp luật theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 như Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ và nhận định. Cụ thể, sự thỏa thuận giữa bà H với trường về việc giải quyết tranh chấp lao động có những nội dung sau:
• Phía bà H đồng ý nhận số tiền hỗ trợ từ trường là 10.000.000 đồng và cam kết không tranh chấp gì thêm liên quan đến vấn đề nghỉ việc của bà H;
• Phía bà H đồng ý quyết định nghỉ việc từ ngày 25/02/2022, không trùng với dữ liệu của cơ quan BHXH ghi nhận;
• Thu hồi quyết định nghỉ việc cũ và ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do dịch bệnh từ ngày 01/10/2021.
• Ông B đại diện bà H đã nhận đủ số tiền 10.000.000 đồng và không có ý kiến gì thêm.
Như vậy, có đủ cơ sở xác định bà H và trường đã thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động và trường đã thi hành thỏa thuận đó là đúng quy định pháp luật. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H cho rằng Quyết định số 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 của trường cho bà nghỉ việc từ ngày 01/10/2021 là trái pháp luật.
Đối với Quyết định số: 09/22/QĐ/MTAC ngày 06/4/2022 của Trường Mầm non M về việc cho thôi việc và chấm dứt hợp đồng đối với bà H mà bị đơn cung cấp ngày 17/3/2023 thì phía nguyên đơn không có yêu cầu khởi kiện quyết định này. Do đó, cấp sơ thẩm không xem xét là đúng quy định pháp luật.
Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện về việc cho rằng trường đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên Hội đồng xét xử cũng không chấp nhận những yêu cầu bồi thường của bà H đối với trường theo yêu cầu khởi kiện và yêu cầu sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đối với yêu cầu trợ cấp mất việc cho bà H theo Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2019 và Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ:
Căn cứ các quy định của pháp luật nêu trên, cũng như trả lời xác minh quá trình tham gia BHXH, BHYT, BHTN của bà H, xác định bà H đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp suốt quá trình có hợp đồng lao động với trường. Do đó, trường không phải trả trợ cấp mất việc cho bà H theo yêu cầu khởi kiện của bà H. Hội đồng xét xử có cơ sở không chấp nhận kháng cáo về nội dung này của nguyên đơn.
Xét việc bà H có đơn bổ sung nội dung khởi kiện yêu cầu trường chi trả số tiền 45 ngày do vi phạm thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, sau đó nguyên đơn rút yêu cầu bổ sung này nên Tòa án cấp sơ thẩm chỉ ghi nhận mà không đình chỉ giải quyết yêu cầu này là có căn cứ vì yêu cầu bổ sung chưa được Tòa án thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa ghi nhận nội dung này trong bản án, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm bổ sung và đề nghị cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm đối với nội dung này.
Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn không phải chịu án phí lao động phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 293 và khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H về việc yêu cầu Tòa án tuyên Quyết định số: 29/21/QĐ/MTAC ngày 30/9/2021 của Trường Mầm non M về việc cho thôi việc và chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Tô Thị Bích H về việc yêu cầu:
- Yêu cầu Trường Mầm non M, căn cứ vào Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 bồi thường cho bà H theo khoản 2 Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 cụ thể như sau:
+ Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 cho cơ quan bảo hiểm có thẩm quyền là: 4.673.000 đồng x 18 tháng x 21,5% = 18.084.510 đồng.
+ Phải trả tiền lương cho những ngày không được làm việc từ tháng 10/2021 đến tháng 3/2023 là: 4.673.000 đồng x 18 tháng = 84.114.000 đồng.
+ Số tiền phải trả thêm một khoản tương đương 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 đồng x 6 tháng = 28.038.000 đồng.
+ Yêu cầu Trường Mầm non M chi trả bồi thường cho bà Tô Thị Bích H theo Điều 47 Bộ luật lao động năm 2019 và được áp dụng tại Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ - CP ngày 14/12/2020 có hiệu lực ngày 01/01/2021 cụ thể nhu sau: Số tiền phải chi trả trợ cấp mất việc làm tương đương với 06 tháng tiền lương là: 4.673.000 x 6 tháng = 28.038.000 đồng.
Tổng cộng: 158.274.510 đồng. Trả một lần ngay khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật.
2. Về án phí sơ thẩm:
Bà Tô Thị Bích H thuộc trường hợp miễn nộp tiền án phí theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Trường Mầm non M không phải chịu án phí lao động sơ thẩm.
3. Về án phí lao động phúc thẩm:
Bà Tô Thị Bích H thuộc trường hợp miễn nộp tiền án phí lao động phúc thẩm.
Trường Mầm non M không phải chịu án phí lao động phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 887/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 887/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 28/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về