TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 267/2023/LĐ-PT NGÀY 09/03/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 09/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2022/TLPT-LD ngày 20 tháng 12 năm 2022 về việc: “Tranh chấp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 64/2022/LĐ-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 703/2023/QĐPT-LĐ ngày 21/02/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Quang G, sinh năm 1970 Địa chỉ: Số A đường T, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phan Mạnh T và Luật sư Võ Tấn L - Luật sư thuộc Công ty L2- Đoàn Luật sư Thành phố H, địa chỉ: số B đường X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Công ty TNHH N1.
Trụ sở: Tầng A, 19 Tòa nhà V, Số E Công Trường M, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Alexander Paul Johannes L1 Địa chỉ: Villa O, Khu Biệt thự cao cấp A, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân T1 hoặc ông Nguyễn Công P hoặc bà Nguyễn Thị Ánh H hoặc ông Lê Nhất H1 (Văn bản ủy quyền ngày 10/01/2023 của Công ty L3) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lương Trung Vân N thuộc Công ty L3- Đoàn Luật sư Thành phố H, địa chỉ: P Tầng B, Tòa nhà B, số B H, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Cổ phần L4. Địa chỉ trụ sở: Số A X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Nguyễn Huyền T2. Địa chỉ liên lạc: Số A X, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền ngày 28/3/2022) 2. Công ty TNHH T4. Địa chỉ trụ sở: Số A C, Khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hà Thị Thu Đ. Địa chỉ liên lạc: 118 C, Khu phố C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Văn bản ủy quyền ngày 25/02/2022)
- Người kháng cáo: Ông Trần Quang G là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đem khởi kiện đề ngày 03/7/2020; đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 13/01/2022, ngày 26/3/2022, quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa nguyên đơn Ông Trần Quang G trình bày:
Ông vào làm việc tại Công ty TNHH N1 (Gọi tắt là Công ty N1) theo Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 76 ngày 10/8/1992. Từ khi vào làm việc tại Công ty N1 ông làm bảo vệ tại số B, đường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó các bên thỏa thuận lại vị trí làm việc của ông lái xe nâng tại bộ phận xếp dỡ hàng hóa, địa điểm làm việc tại Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Mức lương thời điểm 6 tháng liền kề trước khi Công ty N1 cho ông nghỉ việc là 10.645.000 đồng/tháng.
Trong suốt thời gian làm việc tại Công ty N1 ông luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, không vi phạm kỷ luật lao động, không gây bất cứ thiệt hại vật chất cũng như ảnh hưởng nào đến hình ảnh của Công ty N1.
Ngày 04/5/2020, Công ty N1 mời ông đến tham gia buổi họp với nội dung chính là chấm dứt hợp đồng lao động với ông kể từ ngày 06/6/2020 (sau này được điều chỉnh lại thành ngày 22/6/2020) với lý do Công ty N1 thay đổi cơ cấu.
Ngày 06/5/2020, Công ty N1 ra Thư Thông báo các khoản thanh toán trợ cấp mất việc cho ông mà Công ty sẽ thực hiện chi trả. Đồng thời cũng thông báo kéo dài thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế lái xe nâng (trong đó có ông) đến ngày 22/6/2020.
Ngày 08/5/2020, ban chấp hành Công đoàn Công ty N1 làm việc với ông và toàn bộ tài xế lái xe nâng.
Ngày 15/5/2020, Công ty N1 ra thư thông báo các khoản trợ cấp mất việc làm bổ sung khi chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngày 21/5/2020, Công ty N1 ra thông báo cho ông không đến nhà máy làm việc từ ngày 22/5/2020 đến hết ngày 21/6/2020 và vẫn thanh toán đầy đủ tiền lương cho ông đến hết ngày 21/6/2020.
Ngày 17/6/2020, Cộng ty N1 ban hành Quyết định số 15/20/GL/QĐ-HVB về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông kể từ ngày 22/6/2020 với lý do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012.
Ông cho rằng Công ty N1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông không đúng quy định của pháp luật vì Công ty N1 chưa chứng minh được rằng có thay đổi cơ cấu trên thực tế, không công khai phương án trên cho người lao động được biết, không chứng minh được việc không thể đào tạo người lao động để tiếp tục sử dụng và cũng không chứng minh được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H đã nhận được và chấp thuận phương án thay đổi cơ cấu này. Mặt khác, ông cho rằng khi chuyển đổi từ biên chế lái xe nâng sang thuê dịch vụ bên ngoài như ý kiến trình bày của Công ty N1 thì không được xem là nhằm mục đích tổ chức lại lao động. Ông xác nhận đã thực nhận số tiền 279.651.469 đồng từ Công ty N1 sau khi nghỉ việc.
Do đó, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 của Công ty TNHH N1 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông và yêu cầu Công ty TNHH N1 bồi thường cho ông số tiền 1.006.743.500 đồng, bao gồm:
Thanh toán tiền lương trong những ngày ông không được làm việc cho Công ty TNHH N1 (từ ngày 22/6/2020 đến ngày 26/8/2022) theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012, số tiền là: 26 tháng x 10.645.000 đồng = 276.770.000 đồng.
Bồi thường 04 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012, số tiền là: 04 tháng x 10.645.000 đồng = 42.580.000 đồng.
Trợ cấp mất việc theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Lao động năm 2012, số tiền là: 16,5 năm x 10.645.000 đồng = 175.642.500 đồng.
Bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012, tổng số tiền là: 511.751.000 đồng, trong đó: Phụ cấp thêm (05 năm làm việc là 01 tháng lương) là: 27 năm/5 x 10.645.000 đồng = 57.483.000 đồng; Trợ cấp bổ sung, hỗ trợ thêm các khoản chênh lệch khi chuyển sang công ty mới: 110.000.000 đồng; Trợ cấp cố định: 344.268.000 đồng.
Và ông rút lại yêu cầu khởi kiện: Buộc bị đơn Công ty TNHH N1 phải nhận ông trở lại làm việc theo hợp đồng lao động các bên đã giao kết.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Căn cứ khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án có đương sự ở nước ngoài (vì thành viên góp vốn của bị đơn là Heineken Asia 1I PTE.LTD có trụ sở tại nước Hà Lan phải được đưa vào tham gia tố tụng; người đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Alexander Paul Johannes Louis K, quốc tịch Hà Lan, địa chỉ thường trú tại Hà Lan là người có trách nhiệm quản lý, điều hành công ty nên phải đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cụ thể là Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty N1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông G không đúng quy định của pháp luật vì những lý do sau:
Công ty N1 thay đổi cơ cấu nhưng đã thông báo đến cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh không đúng thời hạn trước 30 ngày được quy định tại khoản 3 Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012: Ngày 24/4/2020, Công ty N1 đã phát hành Thông báo số HVN/040520-MD01 về phương án sử dụng lao động, chuyển đổi sang dịch vụ thuê ngoài cho hoạt động xếp dỡ hàng hóa gửi cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H. Tuy nhiên vào ngày 17/6/2020, Công ty N1 lại gửi Thông báo số HVN/220620-MD01 đến Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H về việc thay đổi phương án sử dụng lao động (đến ngày 22/6/2020 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H mới nhận được văn bản). Trong khi ngày 17/6/2020, Công ty N1 đã ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với 06 nhân viên, trong đó có ông G và đến ngày 22/6/2020 Công ty N1 đã chấm dứt xong với tất cả người lao động bị cho thôi việc. Như vậy, sau khi tiến hành cho thôi việc người lao động xong Công ty N1 mới thông báo cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H.
Ngoài ra, Công ty N1 còn chưa công khai phương án sử dụng lao động; Công ty N1 không chứng minh được việc không thể tái sử dụng người lao động sau khi thay đổi cơ cấu (Công ty không đề cập đến các vị trí còn trống trong công ty, không ưu tiên đào tạo người lao động để sử dụng cho công việc mới). Công ty N1 cam kết sẽ giới thiệu những người lao động sang làm việc ở một công ty thứ ba tức là việc thay đổi cơ cấu tổ chức lại lao động chỉ khác ở chỗ người sử dụng lao động của các nhân viên này là một đơn vị lao động khác nhưng chế độ lương và phúc lợi lại rất chênh lệch rất nhiều so với Công ty N1. Bà được biết sau khi Công ty N1 thuê công ty dịch vụ bên ngoài không đạt được hiệu quả kinh tế như lúc trước nên việc Công ty N1 cơ cấu tổ chức lại lao động là không cần thiết, không phù hợp với thông điệp toàn cầu của Tập đoàn H3 về không cắt giảm lao động do dịch bệnh C -19. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại bản khai; biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn Công ty TNHH N1 có người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Công ty TNHH N1 xác nhận Công ty và ông Trần Quang G có giao kết các hợp đồng lao động như trình bày của ông G. Tuy nhiên, Công ty N1 không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với ông G mà Công ty N1 đã chấm dứt hợp đồng lao động với ông G kể từ ngày 22/6/2020 do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động theo đúng quy định của pháp luật tại khoản 10 Điều 36, Điều 44, Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2012 và điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Tao động, cụ thể:
Ngày 31/3/2020, Công ty quyết định thực hiện việc thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động cho Bộ phận kho hàng nhà máy liên quan đến nhân sự thuộc bộ phận lái xe nâng của Công ty, cụ thể là giải thể toàn bộ bộ phận lái xe nâng tại kho hàng nhà máy do Công ty quyết định chuyển sang sử dụng dịch vụ thuê ngoài cho hoạt động xếp dỡ hàng hóa đang được thực hiện bởi bộ phận lái xe nâng. Việc thay đổi cơ cấu này dẫn đến dôi dư 16 người lao động là toàn bộ nhân viên lái xe nâng thuộc bộ phận kho hàng nhà máy của Công ty N1, trong đó có ông G.
Ngày 24/4/2020, Công ty N1 đã có buổi họp với Ban chấp hành Công đoàn cơ sở để thông báo về việc thay đổi cơ cấu. Nội dung của buổi làm việc là xây dựng phương án sử dụng lao động khi thực hiện việc thay đổi cơ cấu. Việc thay đổi cơ cấu dẫn đến dôi dư lao động đối với 16 người lao động lái xe nâng mà Công ty N1 không thể bố trí công việc khác nên Công ty N1 buộc phải cho thôi việc những người lao động này. Trong cuộc họp, Công ty N1 đã thể hiện quan điểm là sẽ giải quyết chế độ trợ cấp mất việc làm nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho những người lao động bị ảnh hưởng bởi việc thay đổi cơ cấu của Công ty N1. Ban chấp hành Công đoàn cơ sở nêu ý kiến rằng phương án giải quyết đối với các trường hợp lao động nghỉ việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động là tuân thủ quy định pháp luật hiện hành và phù hợp với chính sách của Công ty N1. Do đó, cũng vào ngày 24/4/2020, Công ty N1 và Ban chấp hành Công đoàn cơ sở đã ký thông qua phương án sử dụng lao động, trong đó nêu rõ việc Công ty N1 không thể bố trí công việc cho 16 nhân viên lái xe nâng và dùng kinh phí là 1.825.113.500 đồng để giải quyết chế độ cho những người lao động bị mất việc.
Cùng ngày 24/4/2020, Công ty N1 đã phát hành Thông báo số HVN/040520-MD01 về phương án sử dụng lao động đến Sở Tao động, Thương binh và Xã hội Thành phố H và được Sở Tao động, Thương binh và Xã hội Thành phố H xác nhận đã nhận ngày 04/05/2020; trong đó có nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với 16 nhân viên làm việc tại vị trí lái xe nâng kể từ ngày 06/6/2020 dưới hình thức cho thôi việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động.
Ngày 04/5/2020, Công ty N1 đã tổ chức buổi họp với toàn bộ nhân viên lái xe nâng, trong đó có ông G, để thông báo về việc thay đổi cơ cấu và chấm dứt hợp đồng lao động có hiệu lực từ ngày 06/6/2020. Đồng thời thông báo về việc giải quyết chế độ mất việc làm cho những người lao động này theo đúng quy định pháp luật. Trong quá trình làm việc có 10 người lao động đã thỏa thuận với Công ty N1 để cùng ký kết thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
Ngày 06/5/2020, Công ty N1 đã gửi cho ông Giang T3 thông báo các khoản thanh toán trợ cấp mất việc làm do thay đổi cơ cấu mà Công ty sẽ thực hiện chi trả và theo nguyện vọng của các nhân viên tài xế xe nâng Công ty N1 sẽ kéo dài thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế xe nâng do việc thay đổi cơ cấu đến ngày 22/6/2020 (thay vì ngày 06/6/2020). Đồng thời cũng thông báo rằng, ông G sẽ được Công ty thanh toán các khoản: Tiền lương, phụ cấp, các ngày phép chưa nghỉ đến hết ngày 21/6/2020; tiền trợ cấp mất việc là 175.642.500 đồng; phụ cấp thêm là 57.483.000 đồng; lương trả thêm là 21.290.000 đồng; lương tháng 13 tương ứng với thời gian làm việc từ ngày 01/01/2020 đến ngày 21/6/2020.
Ngày 15/5/2020, để hỗ trợ thêm tài chính cho người lao động bị mất việc do thay đổi cơ cấu, tổ chức lại lao động, Công ty N1 đã gửi thông báo trả thêm khoản trợ cấp bổ sung tính theo thâm niên làm việc cho những nhân viên tài xế xe nâng bị chấm dứt hợp đồng lao động nếu những người này xác nhận đồng ý đối với khoản trợ cấp bổ sung này. Trong đó, ông G sẽ được Công ty N1 hỗ trợ thêm về quyền lợi, gồm: Trả khoản tiền theo thâm niên làm việc là 110.000.000 đồng và trả tiền thưởng cuối năm tính theo thời gian làm việc từ ngày 01/01/2020 đến ngày 21/6/2020 tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, ông G không đồng ý nhận khoản tiền hỗ trợ thêm này.
Ngày 01/6/2020, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H có Văn bản số 13633/SLĐTBXH-LĐ gửi cho Công ty N1 hướng dẫn về việc cho nhiều người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu và Công ty N1 đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật. Trên thực tế, chế độ trợ cấp mất việc làm cho người lao động trong trường hợp này còn được Công ty N1 giải quyết cao hơn mức luật định, bảo đảm quyền lợi tối đa cho người lao động trong khả năng của công ty.
Ngày 17/6/2020, Công ty N1 đã gửi Thông báo số HVN/220620-MD01 đến Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Thành phố H (được Sở Lao động , Thương binh và Xã hội Thành phố H xác nhận đã nhận văn bản ngày 22/6/2020) để thông báo về một số thay đổi so với nội dung phương án sử dụng lao động theo hướng có lợi hơn cho người lao động với nội dung như sau: Thời gian chấm dứt hợp đồng lao động với toàn bộ tài xế xe nâng được kéo dài đến ngày 22/6/2020 thay vì chấm dứt sớm hơn vào ngày 06/6/2020; Công ty N1 đồng ý trả thêm khoản tiền cho người lao động bị mất việc tính theo thâm niên làm việc như sau: Hỗ trợ 110.000.000 đồng/nhân viên làm việc trên 20 năm, hỗ trợ 80.000.000 đồng/nhân viên làm việc dưới 20 năm nhưng trên 10 năm, hỗ trợ 40.000.000 đồng/nhân viên làm việc dưới 10 năm cho những người lao động có xác nhận đồng ý với mức hỗ trợ bổ sung khi chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty.
Ngày 17/6/2020, Công ty ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/20/GL/QĐ-HVB để chấm dứt hợp đồng lao động với ông G từ ngày 22/6/2020 là đúng quy định của pháp luật. Khi chấm dứt hợp đồng lao động với ông G, Công ty N1 cũng đã thanh toán đầy đủ các quyền lợi cho ông G số tiền 279.651.469 đồng (sau khấu trừ thuế thu nhập cá nhân, tiền bảo hiểm xã hội nộp cho cơ quan nhà nước). Ngoài ra, Công ty N1 đã gửi thông báo trả thêm khoản trợ cấp bổ sung tính theo thâm niên làm việc là 110.000.000 đồng cho ông G nếu ông G xác nhận đồng ý đối với khoản trợ cấp bổ sung này khi chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty N1 tuy nhiên ông G đã không đồng ý nhận khoản tiền hỗ trợ thêm này.
Do đó, Công ty H4 không đồng ý đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
Công ty N1 đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục để chấm dứt hợp đồng lao động với ông G khi cho người lao động thôi việc do Công ty T5 tổ chức, tổ chức lại lao động theo quy định Bộ luật Lao động năm 2012. Do tính chất đặc thù của công việc là người điều khiển xe nâng để vận chuyển hàng hóa trong khu vực kho hàng nhà máy nên Công ty N1 không có và không thể tái bố trí công việc nào khác phù hợp với chuyên môn của người lao động. Do đó, Công ty N1 đã xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động (ngày 24/4/2020 có sự tham gia của ban chấp hành công đoàn cơ sở do ông Trần Ngọc H2 là Chủ tịch Công đoàn làm đại diện) theo đúng quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2012 và Công Heineken đã thông báo trước với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố H về việc cho thôi việc đối với 16 lao động do thay đổi cơ cấu trước 30 ngày khi cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại khoản 3 Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2012. Tại thời điểm Công ty N1 thực hiện việc thay đổi cơ cấu, tổ chức, pháp luật lao động không có quy định Công ty phải báo trước với người lao động việc thay đổi cơ cấu tổ chức, phải công khai phương án sử dụng lao động và việc cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động nhưng để đảm bảo quyền lợi cho người lao động nên Công ty N1 cũng đã tổ chức cuộc họp ngày 04/5/2020 để thông báo và tìm hiểu mong muốn, nguyện vọng của những người lao động liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động. Sau đó, Công ty N1 cũng đã thanh toán đầy đủ các quyền lợi cho người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 44, Điều 47, Điều 49 Bộ luật Lao động năm 2012 và khoản 1 Điều 8 Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/11/2018 của Chính phủ và tại phiên tòa ông G cũng xác nhận đã nhận đầy đủ số tiền 279.651.469 đồng sau khi Công ty N1 chấm dứt hợp đồng lao động với ông. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại bản ý kiến đề ngày 22/3/2022 người cỏ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Công ty Cổ phần L5 trình bày:
Công ty Cổ phần L5 (gọi tắt là Công ty L5) và Công ty N1 có ký Hợp đồng dịch vụ số HNK 194904-HVB ngày 16/6/2020, bản bổ sung điều chỉnh và các phụ lục kèm theo. Theo đó, Công ty L5 đã cung cấp dịch vụ bốc xếp hàng hóa (luân chuyển, xếp dỡ hàng hóa là thành phẩm, vỏ chai, nguyên vật liệu trong khu vực kho và đến địa điểm cần luân chuyển đến) theo yêu cầu của Công ty N1 tại kho hàng có địa chỉ: Số A đường L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Tùy vào từng thời điểm (mùa cao điểm hay mùa thấp điểm) mà Công ty N1 sẽ thông báo để Công ty L5 & A điều động nhân sự của Công ty L5 một cách phù hợp để đảm bảo dịch vụ được thực hiện đúng tiến độ. Căn cứ khối lượng công việc được nghiệm thu thực tế hàng tháng thì Công ty N1 sẽ xác nhận phí dịch vụ và thanh toán cho Công ty L5. Để thực hiện hợp đồng Công ty L5 đã thỏa thuận với Công ty N1 để Công ty L5 sử dụng các thiết bị xe nâng hàng mà Công ty L5 đã thuê của Công ty TNHH H5 (Việt Nam) và giao cho người lao động của Công ty L5 sử dụng trong quá trình thực hiện luân chuyển và xếp dỡ hàng hóa. Do công việc diễn ra hàng ngày và để thuận tiện cho các bên nên các xe nâng hàng mà Công ty L5 thuê để sử dụng cho việc cung cấp dịch vụ cho Công ty N1 được gửi lại tại kho hàng của Công ty N1. Tại kho hàng Quận A, ngoài Công ty L5 còn có Công ty TNHH T4 cũng thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa cho Công ty N1 tại đây, ngoài ra không còn đơn vị dịch vụ nào khác và cũng không có người lao động nào của Công ty N1 thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa tại đây. Công ty L5 không có ý kiến hay yêu cầu gì khác liên quan đến vụ án và đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
* Tại bản ý kiến đề ngày 21/3/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Công ty TNHH T4 trình bày:
Công ty TNHH T4 (gọi tắt là Công ty T4) và Công ty N1 có ký Hợp đồng dịch vụ số HNK 206346 ngày 01/5/2021. Theo đó, Công ty T4 cung cấp dịch vụ bốc xếp hàng hóa có sử dụng phương tiện hỗ trợ tại các địa điểm có chỉ định của Công ty N1, phạm vi công việc là luân chuyển, xếp dỡ hàng hóa là thành phẩm, vỏ chai, nguyên vật liệu trong khu vực kho và đến địa điểm cần luân chuyển theo yêu cầu của Công ty N1, trong đó bao gồm kho hàng có liên quan đến vụ án tại địa chỉ: Số A, đường L, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Cách thức cung cấp dịch vụ giữa hai bên như sau: Công ty N1 thông báo cho Công ty T4 biết số lượng hàng hóa cần bốc xếp tùy từng thời điểm, sau đó Công ty T4 sẽ tính toán và lên kế hoạch thực hiện điều động nhân sự, phương tiện phù hợp để thực hiện công việc đúng tiến độ và yêu cầu sử dụng dịch vụ của Công ty N1. Nhân sự được điều động cung cấp dịch vụ cho Công ty N1 là người lao động của Công ty T4, còn phương tiện làm việc thì Công ty T4 thuê xe nâng hàng của Công ty TNHH H5 (Việt Nam) để giao cho nhân sự sử dụng để thực hiện dịch vụ bốc dỡ hàng hóa tại địa điểm của Công ty N1, xe nâng cũng được gửi lại tại nơi thực hiện công việc sau mỗi ngày làm việc. Hàng tháng, Công ty T4 và Công ty N1 sẽ đối chiếu khối lượng công việc được thực hiện trong phạm vi dịch vụ đã thỏa thuận để tính chi phí dịch vụ. Trong quá trình cung cấp dịch vụ tại kho hàng Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh ngoài Công ty T4 còn có Công ty Cổ phần L5 cũng thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa cho Công ty N1 tại đây, ngoài ra không có người lao động nào của Công ty N1 thực hiện hoạt động bốc xếp hàng hóa tại đây. Công ty T4 không có ý kiến hay yêu cầu gì khác liên quan đến vụ án và đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa có cơ sở để xác định bị đơn chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động theo đúng quy định của pháp luật tại khoản 10 Điều 36, Điều 44, Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2012 và điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, không phải là trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với nguyên đơn. Sau khi chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn thì bị đơn cũng đã thực hiện chi trả trợ cấp do thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc: Yêu cầu hủy Quyết định số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 của Công ty TNHH N1 chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn và yêu cầu bị đơn Công ty TNHH N1 bồi thường cho nguyên đơn số tiền 1.006.743.500 đồng. Do nguyên đơn tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động mà các bên đã giao kết.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 64/2022/LĐ-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào:
- Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 10 Điều 36, Điều 42, Điều 44, Điều 46, Điều 47, Điều 49 của Bộ luật Lao động năm 2012;
- Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động;
- Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/11/2018 của Chính phủ;
- Thông tư số 47/2015/TT-BLDTBXH ngày 16/11/2015 của Bộ L6 hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 về Chính phủ;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:
- Yêu cầu hủy Quyết định số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 của Công ty TNHH N1 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông Trần Quang G.
- Yêu cầu Công ty TNHH N1 bồi thường cho ông Trần Quang G số tiền 1.006.743.500 đồng, bao gồm: Thanh toán tiền lương trong những ngày ông Trần Quang G không được làm việc cho Công ty TNHH N1 từ ngày 22/6/2020 đến ngày 26/8/2022 là 276.770.000 đồng, bồi thường 04 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012 là 42.580.000 đồng, trợ cấp mất việc theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Lao động năm 2012 là 175.642.500 đồng, bồi thường theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012 la 511.751.000 đồng.
2. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Quang G về việc yêu cầu Công ty TNHH N1 phải nhận ông Trần Quang G trở lại làm việc theo hợp đồng lao động các bên đã giao kết.
3. Vvề án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động:
Nguyên đơn được miễn nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động. Bị đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về lao động.
4. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án Công ty Cổ phần L5 và Công ty TNHH T4 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Ngày 12/9/2022, nguyên đơn ông Trần Quang G nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Phan Mạnh T vắng mặt. Tuy nhiên, nguyên đơn ông Trần Quang G xác nhận đề nghị Tòa án tiếp tục xét xử vắng mặt mà chỉ cần một người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình là Luật sư Võ Tấn L.
Các đương sự thỏa thuận thống nhất được cách giải quyết toàn bộ vụ án như sau:
Chấm dứt Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 76 ngày 10/8/1992 giữa Công ty TNHH NI và ông Trần Quang G theo Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 kể từ ngày 22/6/2020.
Công ty TNHH N1 tự nguyện hỗ trợ cho ông Trần Quang G số tiền 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng), đã bao gồm thuế thu nhập cá nhân. Công ty TNHH N1 có nghĩa vụ khấu trừ và nộp thay thuế thu nhập cá nhân cho ông Trần Quang G theo quy định pháp luật và trả cho ông Trần Quang G số tiền còn lại là 99.000.000 đồng (Chín mươi chín triệu đồng) trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 09/3/2023, chậm nhất là ngày 24/3/2023.
Về án phí giải quyết theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở phúc thẩm như sau:
- Về tố tụng:
Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái với đạo đức xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc chấp hành pháp luật tố tụng và nội dung của vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về Tố tụng:
Nguyên đơn ông Trần Quang G xác nhận đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là Luật sư Phan Mạnh T. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là phù hợp theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Đơn kháng cáo nộp ngày 12/9/2022 của nguyên đơn thực hiện trong thời hạn luật định nên được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
Việc xác định thẩm quyền, quan hệ tranh chấp vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nên được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 17/6/2020, Công ty B Quyết định số 15/20/GL/QĐ-HVB có nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với ông G kể từ ngày 22/6/2020. Ngày 03/7/2020, ông G nộp đơn khởi kiện Công ty tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ Điều 202 Bộ luật Lao động năm 2012, việc khởi kiện của nguyên đơn vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện nên được chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận thống nhất được cách giải quyết toàn bộ vụ án như sau:
Chấm dứt Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 76 ngày 10/8/1992 giữa Công ty TNHH NI và ông Trần Quang G theo Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 kể từ ngày 22/6/2020.
Công ty TNHH N1 tự nguyện hỗ trợ cho ông Trần Quang G số tiền 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng), đã bao gồm thuế thu nhập cá nhân. Công ty TNHH N1 có nghĩa vụ khấu trừ và nộp thay thuế thu nhập cá nhân cho ông Trần Quang G theo quy định pháp luật và trả cho ông Trần Quang G số tiền còn lại là 99.000.000 đồng (Chín mươi chín triệu đồng) trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 09/3/2023, chậm nhất là ngày 24/3/2023.
Xét thấy, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái với đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án lao động sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Án phí lao động sơ thẩm và phúc thẩm:
Nguyên đơn được miễn án phí lao động sơ thẩm và án phí lao động phúc thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 12, Điều 16 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị đơn không phải chịu án phí lao động sơ thẩm và phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 300, khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Căn cứ vào Luật thi hành án dân sự;
Tuyên xử:
Sửa bản án sơ thẩm số 64/2022/LĐ-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh;
1. Công nhận sự thỏa thuận các đương sự như sau:
Chấm dứt Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 76 ngày 10/8/1992 giữa Công ty TNHH NI và ông Trần Quang G theo Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/20/GL/QĐ-HVB ngày 17/6/2020 kể từ ngày 22/6/2020.
Công ty TNHH N1 tự nguyện hỗ trợ cho ông Trần Quang G số tiền 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng), đã bao gồm thuế thu nhập cá nhân. Công ty TNHH N1 có nghĩa vụ khấu trừ và nộp thay thuế thu nhập cá nhân cho ông Trần Quang G theo quy định pháp luật và trả cho ông Trần Quang G số tiền còn lại là 99.000.000 đồng (Chín mươi chín triệu đồng) trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 09/3/2023, chậm nhất là ngày 24/3/2023.
Trường hợp Công ty TNHH N1 chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nêu trên thì hàng tháng Công ty TNHH N1 còn phải trả cho ông Trần Quang G tiền lãi của số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán. Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Án phí lao động sơ thẩm:
Ông Trần Quang G được miễn án phí lao động sơ thẩm.
Công ty TNHH N1 không phải chịu án phí lao động sơ thẩm.
3. Án phí lao động phúc thẩm:
Ông Trần Quang G được miễn án phí lao động phúc thẩm.
Công ty TNHH N1 không phải chịu án phí lao động phúc thẩm 4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 267/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 267/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 09/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về