TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 220/2023/LĐ-PT NGÀY 28/02/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Trong ngày 28/02/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2022/TLPT-LĐ ngày 19 tháng 10 năm 2022, về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 48/2022/LĐ-ST ngày 25/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2023/QĐPT-LĐ ngày 31/02/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Cao Hoài Bích L, sinh năm 1988 Địa chỉ: B, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn D, sinh năm 1981 Địa chỉ: 3 Đ, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo văn bản ủy quyền số 007906 ngày 07/7/2020 do Văn phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận).
- Bị đơn: Công ty TNHH G.
Địa chỉ: B Đ, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Quế T, sinh năm: 1995; Địa chỉ: Tầng B, số G N, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo văn bản ủy quyền số 010521/GUQ-GINKGO-KAV ngày 25/5/2021).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Kiều Anh V - Công ty L5 thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
- Người kháng cáo: Bị đơn Công ty TNHH G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Cao Hoài Bích L có ông Trần Văn D là người đại diện hợp pháp trình bày:
Bà Cao Hoài Bích L và Công ty TNHH G (sau đây gọi tắt là Công ty G) ký kết Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019, thời hạn hợp đồng là 12 tháng kể từ ngày 01/8/2019 đến 31/7/2020, vị trí: kế toán tổng hợp, lương theo hợp đồng là 10.000.000 (mười triệu) đồng/tháng. Mức lương thực lãnh của bà L là 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng/tháng. Lương thực lãnh cao hơn lương theo hợp đồng lao động do bao gồm tiền lương, tiền phụ cấp, tiền thưởng.
Ngày 23/3/2020 Công ty G thông báo cho nhân viên nghỉ làm không lương từ ngày 01/4/2020 đến 30/4/2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Ngày 04/5/2020, bà L chính thức đi làm lại thì được Công ty G thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Ngày 05/5/2020, Công ty G chính thức ra Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động và ngày 05/6/2020 Công ty G ra Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 đối với bà L vì lý do Công ty buộc phải thu hẹp kinh doanh, sản xuất dù đã cố gắng tìm mọi biện pháp khắc phục vì diễn biến phức tạp của dịch bệnh viêm phổi do virut C2 gây ra.
Bà L cho rằng bà không phải là đối tượng thuộc các khoản 1, khoản 2, khoản 4 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012. Mặt khác, Công ty G cho rằng lý do dịch Covid-19 là trường hợp bất khả kháng dẫn tới Công ty G phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm và chấm dứt hợp đồng lao động với bà L là hoàn toàn bất hợp lý, không phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty G.
Bên cạnh đó, trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020, bà L vẫn làm việc Online cho Công ty G, như vậy trong khoảng thời gian này, bà L không được tính là trường hợp nghỉ làm không lương theo quyết định của Công ty G, tuy nhiên, Công ty G chỉ thanh toán cho bà L lương tháng 4/2020 với số tiền là 2.877.000 đồng. Tháng 5/2020, bà L đi làm lại nhưng Công ty G chỉ thanh toán lương tháng 5 là 16.419.000 đồng. Công ty G chưa thanh toán đủ lương cho bà L theo Hợp đồng lao động đã ký kết nhưng sau đó lại thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L.
Việc Công ty G đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L là trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn bổ sung yêu cầu về việc tiếp tục tính tiền lương trong những ngày nguyên đơn không được làm việc đến ngày xét xử sơ thẩm.
Do đó, Nguyên đơn bà Cao Hoài Bích L yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH G có trách nhiệm thanh toán cho bà Cao Hoài Bích L các khoản tiền sau do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
- Tiền lương trong những ngày không được làm việc từ ngày 05/6/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm (19/7/2022): 25 tháng x 25.000.000 đồng là 625.000.000 đồng.
- Cộng với ít nhất 02 tháng lương: 2 tháng x 25.000.000 đồng là 50.000.000 đồng.
- Nhận bà Cao Hoài Bích L trở lại làm việc hoặc bồi thường cho bà Cao Hoài Bích L theo luật định bằng 02 tháng tiền lương: 2 tháng x 25.000.000 đồng là 50.000.000 đồng.
- Tiền lương từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020 mà Công ty TNHH G còn thiếu là 20.841.000 đồng.
- Tiền lương từ ngày 01/5/2020 đến ngày 31/5/2020 mà Công ty TNHH G còn thiếu là 8.581.000 đồng.
Tổng cộng số tiền Công ty TNHH G phải thanh toán cho bà L là 754.422.000 (bảy trăm năm mươi bốn triệu, bốn trăm hai mươi hai nghìn) đồng. Thanh toán một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết tiền lương từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020 và không yêu cầu giải quyết về bảo hiểm xã hội giữa bà L và Công ty TNHH G.
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn Công ty TNHH G có bà Phạm Thị Quế T là người đại diện hợp pháp trình bày:
Công ty TNHH G (sau đây gọi tất là Công ty G) và bà Cao Hoài Bích L có giao kết Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019; Thời hạn 12 tháng từ ngày 01/8/2019 đến ngày 31/7/2020; Công việc: kế toán tổng hợp; L1 theo hợp đồng lao động (lương gộp trước thuế và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) là 10.000.000 (mười triệu) đồng/tháng.
Công ty G đã thanh toán tiền lương cho bà L theo hợp đồng lao động sau khi đã khấu trừ các khoản thuế thu nhập cá nhân, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp mà bà L phải nộp theo quy định của pháp luật. Theo sao kê tài khoản Ngân hàng do bà L đã cung cấp cho Tòa án, ngoài khoản tiền lương mà Công ty G chuyển cho bà L thì bà L còn nhận được một khoản tiền từ tài khoản cá nhân của bà Vũ Thị L2 (là giám đốc Công ty G) thanh toán, đây là khoản thù lao cá nhân của bà L2 thanh toán thêm cho bà L vì bà L còn hỗ trợ bà L2 quản lý tài khoản ngân hàng cá nhân của bà L2. Việc bà L cho rằng mức lương hàng tháng mà Công ty G phải trả cho bà L là 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng/tháng trên cơ sở gộp khoản thanh toán của Công ty G và khoản thanh toán từ tài khoản cá nhân của giám đốc Công ty G cho bà L là không đúng.
Ngày 01/02/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ- TTg về việc công bố dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút C gây ra. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tạm dừng cấp thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam trong khoảng thời gian 30 ngày bắt đầu từ 00 giờ 00 ngày 18/3/2020; hạn chế tối đa các chuyến bay từ vùng dịch về Việt Nam. Công ty G có ngành nghề kinh doanh chủ yếu của là sản xuất và buôn bán các mặt hàng may mặc, giày dép phục vụ du khách nước ngoài và kinh doanh nhà hàng với hệ thống các cửa hàng nằm tại các thành phố du lịch ở Việt Nam, do đó chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 và các chính sách phòng chống Covid-19 của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Doanh thu và lợi nhuận của Công ty G kể từ thời điểm tháng 03/2020 sụt giảm nghiêm trọng, dẫn đến việc Công ty G phải thu hẹp kinh doanh, cụ thể là đóng cửa các cửa hàng và thực hiện rất nhiều các biện pháp để cắt giảm chi phí hoạt động của Công ty G. Từ khoảng gần cuối tháng 03/2020, Công ty G đã ký kết các thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động từ ngày 01/4/2020 đến 30/4/2020 đối với người lao động. Sau thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với nhân viên, Công ty G vẫn phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do dịch Covid-19 nên tiếp tục đưa ra chính sách điều chỉnh giảm giờ làm việc của người lao động.
Sau khi áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng hoạt động kinh doanh của Công ty G vẫn phải chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 và buộc Công ty G phải thu hẹp hoạt động sản xuất, kinh doanh. Phòng kế toán của Công ty G gồm 04 nhân sự bị dôi dư, trong đó bà L là nhân sự mới chỉ làm việc tại Công ty G trong 09 tháng. Công ty G thực hiện quyền chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định pháp luật với nhiều người lao động của Công ty G và trong đó có quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012. Công ty G đã tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ thông báo trước ít nhất 30 ngày về chấm dứt hợp đồng lao động cho bà L cũng như đã thanh toán đầy đủ cho bà L tiền lương cho đến ngày chấm dứt hợp đồng lao động.
Như vậy, bà L yêu cầu Công ty G thanh toán tiền lương còn thiếu của tháng 4/2020 là không phù hợp vì Công ty G và bà T đã ký kết thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động từ ngày 01/4/2020 đến 30/4/2020. Tuy nhiên sau đó văn bản thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động của Công ty G bị mất nên không thể cung cấp cho Tòa án. Giữa Công ty G và bà L không có thỏa thuận nào về việc bà L làm Online tại nhà nên không có cơ sở để bà T yêu cầu Công ty G thanh toán cho bà L trong khoảng thời gian trên là 20.841.000 đồng. Khoản tiền 2.877.000 đồng mà bà T nhận được trong tháng 04/2020 là khoản tiền hỗ trợ của Công ty G cho người lao động. Trước khi bà T nghỉ việc, Công ty G đã xảy ra tình trạng mất mát nhiều tài liệu, trong đó có các tài liệu, văn bản về việc tạm hoãn hợp đồng lao động của Công ty G với người lao động, các tài liệu mật khác mà bà L là người có liên quan.
Đối với tiền lương tháng 5/2020: Công ty G đã thanh toán đủ tiền lương tháng 5/2020 cho bà L sau khi đã khấu trừ khoản tiền thuế thu nhập cá nhân và tiền đóng bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật.
Do Công ty G đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với bà L theo đúng quy định pháp luật nên các yêu cầu của bà L yêu cầu Công ty G thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc và bồi thường tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không có cơ sở. Công ty G đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Nguyên đơn bà Cao Hoài Bích L tranh chấp tiền lương với Công ty TNHH G, tuy nhiên việc tranh chấp chưa thông qua thủ tục hòa giải cơ sở, do đó đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về nội dung vụ việc, bà L cho rằng khoảng thời gian từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020 là làm việc online tại nhà nhưng bà L không thể cung cấp được các sản phẩm, báo cáo nào thể hiện việc có làm việc tại nhà cho Công ty G, trong khi đây là thời điểm Công ty G tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với những người lao động trong Công ty G. Qua báo cáo tài chính năm 2019 và năm 2020 do Công ty G cung cấp đã thể hiện doanh thu Công ty G sụt giảm nghiêm trọng, đã phải đóng cửa một số chi nhánh của Công ty G. Dịch covid-19 là sự kiện dịch bệnh bất khả kháng nên Công ty G đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L sau khi đã báo trước 30 ngày là đúng quy định của pháp luật. Do đó đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 1 phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự, tiến hành thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, thời gian mở phiên tòa, thành phần Hội đồng xét xử và nguyên tắc xét xử. Đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền, nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng.
Về nội dung vụ án: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện Công ty TNHH G (sau đây gọi là Công ty G) và bà Cao Hoài Bích L có xác lập Hợp đồng lao động số HĐTĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019, thời hạn hợp đồng từ ngày 01/8/2019 đến ngày 31/7/2020, công việc: kế toán tổng hợp. Ngày 04/5/2020 bà L được Công ty G thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Ngày 05/5/2020, Công ty G chính thức ra Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động và ngày 05/6/2020 Công ty G ra Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 đối với bà L vì lý do Công ty buộc phải thu hẹp kinh doanh, sản xuất dù đã cố gắng tìm mọi biện pháp khắc phục vì diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 gây ra. Công ty G cung cấp tài liệu về việc chấm dứt hoạt động kinh doanh Chi nhánh 4, Chi nhánh 5 tại Hà Nội và kết quả kinh doanh năm 2020 giảm so với năm 2019; tuy nhiên Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động với hình thức hạch toán độc lập, không hạch toán phụ thuộc, không liên quan đến các chi nhánh bị đóng cửa. Những biện pháp khắc phục khó khăn không hiệu quả dẫn đến việc phải cho bà L nghỉ việc chua được Công ty G chứng minh làm rõ. Việc Công ty G đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L là trái pháp luật. Do đó bị đơn có trách nhiệm bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật lao động và thanh toán tiền lương tháng 04/2020 còn thiếu căn cứ theo mức lương theo hợp đồng lao động là 10.000.000 (mười triệu) đồng/tháng. Do đó, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 48/2022/LĐ-ST ngày 25/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào:
- Điổm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 244, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 31, Điều 32, Điều 41, khoản 1 Điều 42, Điều 90, Điều 98 của Bộ luật Lao động năm 2012;
- Điều 8, Điều 21 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động;
- Điều 2, điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị định số 90/2019/NĐ-CP ngày 15/11/2019 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động;
- Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Hoài Bích L:
Tuyên bố Công ty TNHH G đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà Cao Hoài Bích L là trái pháp luật.
Buộc Công ty TNHH G phải thanh toán cho bà Cao Hoài Bích L tiền lương trong những ngày không được làm việc từ ngày 05/6/2020 đến ngày 31/7/2020 là 18.461.530 đồng; Bồi thường 02 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là 20.000.000 đồng; Tiền lương từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020 còn thiếu là 1.543.000 đồng; Tổng cộng là 40.004.530 (bốn mươi triệu, không trăm lẻ bốn nghìn, năm trăm ba mươi) đồng.
Thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày bà Cao Hoài Bích L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, Công ty TNHH G còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Hoài Bích L về việc: Buộc Công ty TNHH G phải thanh toán cho bà Cao Hoài Bích L tiền lương những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/8/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm (19/7/2022) là 606.538.470 đồng; Bồi thường 02 tháng lương là 30.000.000 đồng; Tiền lương từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020 còn thiếu là 19.298.000 đồng; Tiền lương từ ngày 01/5/2020 đến ngày 31/5/2020 còn thiếu là 8.581.000 đồng; Nhận bà Cao Hoài Bích L trở lại làm việc hoặc bồi thường cho bà Cao Hoài Bích L 02 tháng tiền lương là 50.000.000 đồng.
3. Hợp đồng lao động số HĐTĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019 giữa bà Cao Hoài Bích L và Công ty TNHH G chấm dứt kể từ ngày 31/7/2020.
4. Về án phí lao động sơ thẩm:
- Công ty TNHH G chịu án phí lao động sơ thẩm là 1.200.136 (một triệu, hai trăm nghìn, một trăm ba mươi sáu) đồng.
- Bà Cao Hoài Bích L được miễn nộp án phí lao động sơ thẩm.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự về thi hành án dân sự.
Ngày 08/8/2022, bị đơn là Công ty TNHH G nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nội dung yêu cầu bị đơn là Công ty TNHH G phải trả tiền lương cho bà L thời gian từ ngày 01/4/2020 đến ngày 31/5/2020. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là Công ty TNHH G cùng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH G đồng ý với đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như nêu trên.
Người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty TNHH G vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của bà Cao Hoài Bích L với lập luận cho rằng Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L tại thời điểm dịch bệnh Covid 19 thuộc trường hợp sự kiện bất khả kháng, dịch bệnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của công ty, Công ty G đã tìm mọi biện pháp khắc phục (điều chỉnh giờ làm việc của người lao động, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động với người lao động ...) nhưng vẫn buộc phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, giảm chỗ làm việc, dẫn đến việc phải thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà L theo quy định tại điểm c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động năm 2012.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát kiểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các bên đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đơn kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm - Về yêu cầu kháng cáo:
Cấp sơ thẩm giải quyết tranh chấp tiền lương giữa bà L với Công ty chưa qua thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động là vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện tranh chấp về phần tiền lương, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện cũng đã được bị đơn đồng ý. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đã rút, hủy 1 phần án sơ thẩm đối với yêu cầu này.
Đối với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của công ty đối với bà L căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 38 do dịch bệnh và trường hợp bất khả kháng. Nhận thấy, công ty chưa tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn theo hướng dẫn của Bộ L6 mà đã chấm dứt hợp đồng lao động với bà L là không đúng. Vì vậy, cấp Sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L là có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đã rút, hủy một phần bản án sơ thẩm, giữ nguyên các phần khác của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
Ngày 25/7/2022, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên án vụ án. Ngày 08/8/2022, bị đơn là Công ty TNHH G nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đã nộp tạm ứng án phí lao động phúc thẩm là đúng thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, đơn kháng cáo của bị đơn là Công ty TNHH G được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trần Văn D có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn xét xử vụ án vắng mặt đại diện nguyên đơn.
Về nội dung:
[1] Xét việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Cao Hiền Bích L3 có ông Trần Văn DI làm người đại diện hợp pháp đối với yêu cầu cụ thể: Yêu cầu công ty thanh toán tiền lương còn thiếu từ ngày 01/4/2020 đến 31/5/2020 gồm: Tiền lương từ 01/4/2020 đến 30/4/2020 là 20.841.000đ và tiền lương từ 01/512020 đến 31/5/2020 là 8.581.000đ.
Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện tại cấp phúc thẩm được sự đồng ý của phía bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng dân sự hủy một phần bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu công ty T1 còn thiếu từ 01/4/2020 đến 31/5/2020.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
Căn cứ Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK ngày 05/6/2020 của Công ty TNHH G về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019 đối với bà bà Cao Hoài Bích L xác định công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà L trong trường hợp công ty buộc phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh dù đã cố gắng mọi biện pháp khắc phục vì diễn biến phức tạp của dịch bệnh viêm phổi do vi rút Covid-19 gây ra theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38 Bộ luật Tao động 2012. Công ty được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà L “do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục những vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc”.
Xét thời điểm công ty ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà L ngày 05/6/2020 là thời điểm dịch bệnh do vi rút Covid-19 đang bùng phát và cả thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng đang phải tích cực tập trung chống dịch và duy trì sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, kết quả chống dịch cũng như hậu quả của dịch bệnh đã gây tổn thất vô cùng lớn cho xã hội và các doanh nghiệp.
Xét tình hình hoạt động cũng như quan hệ lao động giữa Công ty TNHH G và người lao động tại thời điểm dịch bệnh được thực hiện bởi các văn bản của Nhà nước như sau:
- Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc cách ly toàn xã hội nên cuối tháng 3/2020 công ty đã thông báo đến người lao động về việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động đối với người lao động từ 01/4/2020 đến 30/4/2020;
- Bà L cũng là người lao động phải cách ly và tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động; bà L không có chứng cứ xác thực là vẫn phải làm việc online tại nhà. Tiền bà L nhận từ công ty là tiền hỗ trợ dịch bệnh, không phải là tiền lương công ty phải trả (nếu có) trong thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
- Sau ngày 30/4/2020 Công ty vẫn phải khắc phục ảnh hưởng của dịch bệnh nên phải sắp xếp, điều chỉnh lại giờ làm việc, duy trì hoạt động và chịu ảnh hưởng chung do dịch bệnh phức tạp kéo dài, giảm lao động, cắt giảm cơ cấu tổ chức và sụt giảm doanh thu như phía bị đơn là công ty đã trình bày và đã cung cấp chứng cứ cũng như thực tế chung tình hình xã hội tại thời điểm dịch bệnh năm 2020.
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 12 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ xác định dịch bệnh Covid-19 xảy ra tại thời điểm năm 2020 thuộc trường hợp bất khả kháng nên người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 38 Bộ luật Tao động năm 2012.
Xét việc chấm dứt hợp đồng lao động của công ty với bà L. Công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục chưa? Buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc không? Công ty chấp hành đúng việc báo cho người lao động trước 30 ngày theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012 không? Căn cứ đơn khởi kiện, lời khai của các bên đương sự thể hiện ngày 04/5/2020, bà L sau khi nghỉ làm do tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động đã tiếp tục vào công ty làm việc thì ngày 05/5/2020 công ty thông báo chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 05/6/2020 là đủ 30 ngày theo quy định. Bà L chỉ cho rằng công ty cho bà nghỉ việc không đúng do ảnh hưởng dịch bệnh vì công ty vẫn hoạt động.
Xét như phân tích phần trên, công ty chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà L do thuộc trường hợp bất khả kháng bởi dịch bệnh là có căn cứ và công ty đã chứng minh rõ việc phải cắt giảm lao động, thu hẹp sản xuất, sụt giảm doanh thu và tình hình thực tế chung của toàn xã hội. Do đó cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ và căn cứ pháp luật chưa toàn diện, cụ thể:
Án sơ thẩm cho rằng công ty chưa thực hiện đúng hướng dẫn theo công văn số 1064/LĐTBXH-QHLĐTL ngày 25/3/2020 của Bộ L6 và quy định của luật lao động về việc do công ty không thực hiện toàn bộ các quy định của công văn trên mà đã chấp dứt hợp đồng lao động với bà L. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy công văn nêu trên chỉ hướng dẫn doanh nghiệp giải quyết quan hệ lao động trong tình thế dịch bệnh và đưa ra những tình huống cụ thể để doanh nghiệp áp dụng quy định của bộ luật lao động. Văn bản hướng dẫn này không bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện toàn bộ các tình huống được liệt kê tại mục 3 mà có thể áp dụng từng tình huống cụ thể để từ đó căn cứ các quy định của bộ luật lao động để sắp xếp lao động trong thời gian do tác động bởi dịch Covid-19.
Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận lập luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn xác định công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà L theo Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK ngày 05/6/2020 của Công ty TNHH G đối với bà Cao Hoài Bích L là có căn cứ, đúng pháp luật. Bà L đã được nhận đủ các quyền lợi, vật chất khi chấm dứt hợp đồng lao động nên không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà L.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, cũng như đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH G, sửa án sơ thẩm.
[3] Về án phí: cấp sơ thẩm chấp nhận buộc Công ty TNHH G phải trả cho bà Cao Hoài Bích L tiền lương còn thiếu từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020 còn thiếu là 1.543.000 đồng, tương đương án phí lao động sơ thẩm là 300.000 đồng. Tuy nhiên, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện tại cấp phúc thẩm, được sự đồng ý của phía bị đơn. Do đó, bị đơn Công ty TNHH G vẫn phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 đồng.
Do sửa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Công ty TNHH G không phải chịu án phí lao động phúc thẩm. Bà Cao Hoài Bích L được miễn án phí Lao động sơ thẩm và Lao động phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 296; Khoản 1 Điều 299; khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Bộ luật Lao động năm 2012;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo);
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết và hủy một phần bản án sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của bà Cao Hoài Bích L buộc Công ty TNHH G phải trả tiền lương còn thiếu cho bà Cao Hoài B Liên từ ngày 01/4/2020 đến 31/5/2020.
2. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH G, sửa phần còn lại của bản án lao động sơ thẩm số 48/2022/LĐ-ST ngày 25/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Cao Hoài Bích L đối với Công ty TNHH G về việc:
- Tuyên bố Công ty TNHH G đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà Cao Hoàn Bích L4 là trái pháp luật. Hợp đồng lao động chấm dứt từ ngày 05/6/2020 theo Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK.
- Buộc Công ty TNHH G phải trả cho bà Cao Hoài Bích L các khoản tiền do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật gồm:
+ Tiền lương những ngày không được là việc từ 05/6/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm (19/7/2022) là 625.000.000 đồng.
+ Chuyển ít nhất 02 tháng tiền lương là 50.000.000 đồng.
+ Nhận bà L trở lại làm việc hoặc bồi thường cho bà L theo luật định bằng hai tháng tiền lương là 50.000.000 đồng.
Hợp đồng lao động số HĐLĐ/2019-1/8 ngày 01/8/2019 giữa bà Cao Hoài Bích L với Công ty TNHH G1 kể từ ngày 05/6/2020 theo Quyết định số 05-01/06/2020NV/GK ngày 05/6/2020 của Công ty TNHH G đối với bà Cao Hoài Bích L.
3. Án phí lao động sơ thẩm: Bà Cao Hoài Bích L được miễn; Công ty TNHH G phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 đồng.
4. Án phí lao động phúc thẩm: Công ty TNHH G không phải chịu. Trả lại cho Công ty TNHH G số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số AA/2021/0006194 ngày 12/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7; Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 220/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 220/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 28/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về