TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 177/2023/LĐ-PT NGÀY 20/02/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 20 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 93/2022/TLPT-LĐ ngày 14 tháng 12 năm 2022, về việc: “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 52/2023/QĐPT-LĐ ngày 10 tháng 01 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 901/2023/QĐ-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn An Thu T, sinh năm 1978 Địa chỉ: A B, Phường H, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Thái H, sinh năm 1978; địa chỉ: E Đường số H, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 157 ngày 05/01/2022 lập tại VPCC N, Thành phố Hồ Chí Minh). (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Lê Vinh Thái B - Công ty L1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ liên hệ: 5 Đường số H, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
- Bị đơn: Công ty TNHH D Trụ sở: Lô D, D3, D4, D Đường số H, KCN cơ khí ô tô Thành phố Hồ Chí Minh, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Diệu Q, sinh năm 1992; địa chỉ liên lạc: Tầng B, P, E Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 04/02/2023). (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh Trụ sở: 174/1 Tỉnh Lộ 8, khu phố B, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Đào Anh K, sinh năm 1972; chức vụ: Giám đốc; là người đại diện theo pháp luật. (xin vắng mặt)
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Tăng L, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ: C 301 L, ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Bình Dương.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Nguyễn An Thu T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại Đơn khởi kiện ngày 31 tháng 12 năm 2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn An Thu T và người đại diện ủy quyền là ông Nguyễn Thái H trình bày:
Ngày 11/11/2019 bà có ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH D, hợp đồng lao động số 123/HĐLĐ.L1-2019, thời hạn 01 năm từ ngày 11/11/2019 đến ngày 10/11/2020. Trong thời gian làm việc, bà luôn hoàn thành công việc được giao và không vi phạm bất kỳ kỷ luật lao động nào.
Ngày 23/10/2020 Công ty thông báo số ngày nghỉ phép được hưởng nguyên lương của bà là 9,6 ngày và yêu cầu bà nghỉ phép theo quy định, vì vậy bà viết đơn xin nghỉ phép 9,6 ngày, kể từ ngày 26/10/2020 đến hết ngày 05/11/2020 và đã được Ban lãnh đạo phê duyệt.
Trong thời gian nghỉ phép hàng năm theo luật định, cụ thể là ngày 28/10/2020 Công ty thông báo và yêu cầu bà vào trụ sở Công ty để bàn giao công việc, dụng cụ, máy móc thiết bị,... và trao cho bà thông báo không tái ký hợp đồng lao động. Việc này làm bà ngỡ ngàng, bị động và vô cùng thất vọng trước cách thức làm việc nghiệp dư và không tôn trọng người lao động của Ban lãnh đạo Công ty.
Công ty giao cho bà T Thông báo số 08-2020/QĐ-DH ký ngày 07/10/2020 về việc không tái ký hợp đồng lao động vào ngày 28/10/2020, từ ngày nhận thông báo đến ngày chấm dứt hợp đồng lao động là ngày 10/11/2020 chỉ có 13 ngày. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012, việc Công ty thông báo không tái ký hợp đồng lao động với bà là vi phạm thời hạn báo trước. Trong khi đó bản thông báo không tái ký hợp đồng lao động mà Công ty đang lưu giữ ghi nhận thông tin bà ký xác nhận vào ngày 23/10/2020 là hoàn toàn không đúng sự thật, không phải do bà ký và có dấu hiệu gian dối, tuy nhiên bà T không yêu cầu giám định chữ ký. Nếu thật sự Công ty ký văn bản ngày 07/10/2020 mà chờ đến ngày 28/10/2020 mới thông báo cho bà là hoàn toàn không thiện chí, hành xử không chuyên nghiệp, cố tình đẩy người lao động vào tình thế mất việc làm vào những ngày cuối năm 2020.
Đồng thời ngày 28/10/2020 khi bàn giao thông báo không tái ký hợp đồng lao động và tính trả lương cho bà chỉ đến hết ngày 05/11/2020 (theo ngày nghỉ phép của bà đã được Ban lãnh đạo Công ty phê duyệt) là hoàn toàn sai so với quy định của pháp luật lao động, bởi lẽ Công ty đã ban hành Quyết định số 302/QĐ-TV-2020 ngày 10/11/2020 về việc cho bà nghỉ việc kể từ ngày 11/11/2020 (quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký) đã tước đi quyền được lao động hợp pháp của bà kể từ ngày 06/11/2020 đến hết ngày 10/11/2020 (4 ngày) vì trong thời gian này hợp đồng lao động mà Công ty đã ký với bà đương nhiên vẫn tiếp tục có hiệu lực thi hành, vì thực tế kể từ ngày bàn giao và thông báo không tái ký hợp đồng lao động ngày 28/10/2020, Công ty không cho bà vào trụ sở làm việc.
Việc làm trên của Công ty là đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà trái pháp luật theo quy định tại Điều 38, 39 Bộ luật Lao động.
Mặt khác khi tính lương tháng 10/2020 cho bà, Công ty trừ lương của bà trong những ngày nghỉ phép hàng năm được hưởng nguyên lương là sai so với quy định tại Điều 111 Bộ luật Lao động. Vì quá bức xúc nên bà có phản ánh kiến nghị thì Ban lãnh đạo Công ty mới xem xét, chỉnh sửa lại bảng tính lương tháng 10/2020 cho bà, tính lại và cộng số tiền lương trong những ngày bà nghỉ phép năm theo đúng quy định.
Từ ba hành vi trên đã chứng minh Công ty đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật lao động, không thiện chí hợp tác, không trung thực, không tôn trọng người lao động, cố tình đẩy người lao động vào thế bị động, mất việc làm vào thời điểm gần cuối năm 2020, làm thiệt hại nặng nề về vật chất lẫn tinh thần.
Do đó bà Nguyễn An Thu T1 khởi kiện Công ty yêu cầu:
- Tuyên bố công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà là trái pháp luật.
- Buộc Công ty TNHH D bồi thường cho bà tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ ngày 06/11/2020 đến hết ngày 10/11/2020 (4 ngày cho những ngày bà không được làm việc): (15.000.000đ/26 ngày công/tháng) x 4 ngày = 2.307.000đ (Hai triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng) và 04 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động (bao gồm 02 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động và 02 tháng tiền lương dự kiến bà được hưởng cuối năm 2020 và Tết nguyên đán) theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Lao động: 15.000. 000đ x 4 tháng = 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).
- Bồi thường thiệt hại số tiền có giá trị bằng 03 tháng tiền lương cho bà theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động: 3 tháng x 15.000.000đ/tháng = 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng).
Tổng cộng số tiền buộc Công ty TNHH D phải trả cho bà một lần là 107.307.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng).
Nguyên đơn không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Lê Diệu Q trình bày:
Công ty D và bà Nguyễn An Thu T ký kết hợp đồng lao động số 123/HĐLĐ.L1-2019 có thời hạn 01 năm từ ngày 11/11/2019 đến ngày 10/11/2020, chức vụ: Nhân viên thuộc bộ phận hành chính nhân sự, bà T được giao nhiệm vụ làm bếp trưởng phụ trách nấu ăn tại căn tin cho toàn bộ công, nhân viên của Nhà máy C. Trong quá trình bà T công tác, Công ty nhiều lần nhận được phản ánh của anh em công nhân về chất lượng phục vụ của căn tin không đạt, cụ thể: Thực đơn không phong phú, cơm thường xuyên bị nhão, nguyên liệu nấu ăn không tươi, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm... Ngoài ra Ban Giám đốc còn nhận được phản ánh của người lao động về việc bà T rửa chân và ủng trong bồn rửa rau quả (sự việc đã được ghi nhận bằng thư cảnh báo ngày 12/02/2020). Vì lẽ đó, khi hết hạn hợp đồng, Ban Giám đốc Công ty quyết định không tiếp tục tái ký hợp đồng lao động với bà T.
Ngày 23/10/2020 đại diện Công ty đã mời bà T tham gia cuộc họp nhằm thông báo về việc Ban Giám đốc quyết định không tiếp tục tái ký hợp đồng lao động với bà T. Đồng thời đại diện Công ty cũng tiến hành giao cho bà T Thông báo số 08-2020/QĐ-DH. Tại cuộc họp, bà T đồng thuận với quyết định của Ban Giám đốc, tự mình ký tên xác nhận trên 01 bản Thông báo số 08-2020/QĐ-DH và gửi lại Công ty, 01 bản còn lại bà T mang về. Như vậy ngày 23/10/2020 Công ty đã giao thông báo bằng văn bản cho bà T biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động là ngày 11/11/2020 (báo trước 19 ngày) là vượt chuẩn so với quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Lao động. Việc bà T trình bày trong đơn khởi kiện là bà T không ký trên thông báo số 08-2020/QĐ-DH là hoàn toàn bịa đặt. Công ty khẳng định chữ ký trên Thông báo số 08-2020/QĐ-DH mà Công ty nộp cho Tòa án là do bà T ký.
Cùng ngày 23/10/2020 bà T có đơn xin nghỉ phép năm từ ngày 26/10/2020 đến ngày 05/11/2020, tổng cộng 9,6 ngày phép, đơn nghỉ phép đã được phê duyệt. Bên cạnh đó theo đúng quy định sau khi kết thúc kỳ nghỉ phép, bà T phải tiếp tục đến Công ty làm việc từ ngày 06/11/2020 đến ngày 10/11/2020 (5 ngày công) nhưng bà T trình bày nguyện vọng xin nghỉ sớm để nghỉ ngơi và có thời gian tìm công việc mới. Đại diện công ty tiếp tục đồng ý cho bà T nghỉ trước thời hạn và vẫn trả đủ 100% lương cho 5 ngày công còn lại, chỉ yêu cầu bà T sắp xếp thời gian đến Công ty 01 ngày để nhận lại đồ dùng cá nhân của bà T. Như thỏa thuận ngày 28/10/2020 bà T đến Công ty nhận lại nồi cơm điện, máy sinh tố, bình siêu tốc và chảo. Sau khi bà T hoàn thành việc bàn giao, nhận lại đồ dùng cá nhân thì Công ty đã thanh toán bằng hình thức chuyển khoản cho bà T đầy đủ tiền lương từ ngày 01/10/2020 đến ngày 10/11/2020 là 19.401.944đ (Mười chín triệu bốn trăm lẻ một nghìn chín trăm bốn mươi bốn đồng), tương đương 35 ngày công. Hai bên chính thức hoàn tất mọi nghĩa vụ của mình theo Hợp đồng lao động đã ký.
Từ những nội dung trên, Công ty cho rằng bà T khởi kiện vì Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật cùng với việc yêu cầu Công ty bồi thường 107.307.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng) là vô lý và hoàn toàn không có cơ sở. Tất cả nội dung bà T trình bày trong đơn khởi kiện là không đúng thực tế diễn ra, đặc biệt việc bà T một mực phủ nhận chữ ký của mình tại Thông báo số 08-2020/QĐ-DH và cho rằng có dấu hiệu gian dối là biểu hiện của sự không trung thực, cố tình dẫn dắt câu chuyện theo hướng không có thật để đòi bồi thường và sâu xa hơn là nhằm mục đích bôi nhọ hình ảnh và uy tín của Công ty. Từ đó phía bị đơn không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà T.
Công ty TNHH D có yêu cầu phản tố về việc: Buộc bà Nguyễn An Thu T1 bồi thường toàn bộ thiệt hại tổng cộng số tiền là 116.081.540đ (Một trăm mười sáu triệu không trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm bốn mươi đồng); yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi nếu phát hiện có dấu hiệu của tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự, đề nghị Tòa án tạm đình chỉ/đình chỉ vụ án để Công ty TNHH D tiến hành tố cáo tại cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm Xã hội huyện C do ông Đào Anh K là người đại diện theo pháp luật trình bày:
Bà Nguyễn An Thu T đã được cơ quan Bảo hiểm Xã hội huyện C xác nhận quá trình đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 11/2019 đến tháng 10/2020, tổng thời gian tham gia bảo hiểm xã hội đến tháng 10/2020 là 1 năm, quá trình tham gia bảo hiểm thất nghiệp đến tháng 10/2020 là 1 năm.
Ngày đã xác nhận sổ: 01/11/2020.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, người làm chứng là ông Nguyễn Tăng L trình bày:
Ông làm việc tại Công ty TNHH D từ năm 2016 đến tháng 10/2020 với chức vụ là Trưởng Phòng hành chính nhân sự. Ông xin nghỉ việc và chính thức nghỉ việc tại Công ty từ tháng 11/2020.
Vào ngày 28/10/2020 tại Phòng tiếp tân của Công ty TNHH D, ông có gặp bà T, bà T có hỏi ông là tại sao bà T đang nghỉ phép mà Công ty lại kêu bà T vô Công ty để thông báo về việc không tái ký hợp đồng lao động. Ông không nắm được sự việc này nên ông nói bà T gặp Ban Chấp hành Công đoàn Công ty để phản ánh.
Ông khẳng định là ông không trực tiếp nhìn thấy bà T nhận thông báo không tái ký hợp đồng lao động từ Công ty.
* Tại bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022, Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 42/2022/QĐ-SCBSBA ngày 29/9/2022 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/2023/QĐ-SCBSBA ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn An Thu T1 về việc bà T1 yêu cầu: Tuyên bố Công ty TNHH D chấm dứt hợp đồng lao động với bà T1 là trái pháp luật; yêu cầu Công ty TNHH D bồi thường cho bà T1 tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ ngày 06/11/2020 đến hết ngày 10/11/2020 là 2.307.000đ (Hai triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng); 04 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động (bao gồm 02 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động và 02 tháng tiền lương dự kiến bà T1 được hưởng cuối năm 2020 và Tết nguyên đán) theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Lao động là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng); bồi thường thiệt hại số tiền có giá trị bằng 03 tháng tiền lương cho bà T1 theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động là 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng), tổng cộng số tiền bà T1 yêu cầu Công ty TNHH D phải bồi thường cho bà T1 một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là 107.307.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng).
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH D về việc: Yêu cầu bà Nguyễn An Thu T1 bồi thường toàn bộ thiệt hại tổng cộng số tiền là 116.081.540đ (Một trăm mười sáu triệu không trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm bốn mươi đồng); yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi nếu phát hiện có dấu hiệu của tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự, đề nghị Tòa án tạm đình chỉ/đình chỉ vụ án để Công ty TNHH D tiến hành tố cáo tại cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 11/10/2022 nguyên đơn bà Nguyễn An Thu T1 làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm * Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Thái H và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là Luật sư Lê Vinh Thái B trình bày:
Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử không đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và khởi kiện bổ sung của bà T1 buộc Công ty TNHH D bồi thường, trợ cấp tổng cộng các khoản là 423.357.000 đồng.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Lê Diệu Q trình bày:
Bị đơn đã chứng minh việc có báo trước không tái ký hợp đồng cho bà T1 bằng bản thông báo có chữ ký xác nhận; nhưng phía nguyên đơn không chứng minh được lời khai bà T1 là nhận vào ngày 28/10/2020, cho rằng ký nhận gian dối nhưng lại từ chối giám định chữ ký. Do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ, nay tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn lại yêu cầu kháng cáo số tiền nhiều hơn đã đòi tại phiên sơ thẩm lại càng không hợp lý. Bản án lao động sơ thẩm đã xét xử đúng quy định, đề nghị y án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận định tại phiên tòa phúc thẩm đại diện nguyên đơn yêu cầu bồi thường, trợ cấp tổng cộng các khoản là 423.357.000 đồng. Xét thấy yêu cầu này là vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm nên không thể chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn An Thu T1. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về hình thức: Kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn An Thu T trong hạn luật định, phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[2]. Về sự có mặt của các đương sự:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội huyện C do ông Đào Anh K đại diện có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 30/01/2023; Người làm chứng là ông Nguyễn Tăng T đã có lời khai đầy đủ tại phiên tòa sơ thẩm và vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 294, khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.
[3]. Về nội dung: Bà Nguyễn An Thu T1 kháng cáo Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên: bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm.
Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1]. Căn cứ vào Hợp đồng lao động số 123/HĐLĐ.L1-2019 ngày 11/11/2019 giữa bà Nguyễn An Thu T và Công ty TNHH D có thời hạn 01 năm từ ngày 01/9/2018 đến 10/11/2020. Xét, ngày 23/10/2020 đại diện Công ty TNHH D đã mời bà T tham gia cuộc họp nhằm thông báo về việc Ban Giám đốc quyết định không tiếp tục tái ký hợp đồng lao động với bà T. Đồng thời đại diện Công ty cũng tiến hành giao cho bà T Thông báo số 08-2020/QĐ-DH. Tại cuộc họp, bà T đồng thuận với quyết định của Ban Giám đốc, tự mình ký tên xác nhận trên 01 bản Thông báo số 08-2020/QĐ-DH và gửi lại Công ty, 01 bản còn lại bà T mang về. Như vậy ngày 23/10/2020 Công ty đã giao thông báo bằng văn bản cho bà T biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động là ngày 11/11/2020 (báo trước 19 ngày) là vượt quá thời gian báo trước tối thiểu so với quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Lao động.
[3.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện bổ sung (đã được Tòa án huyện C thụ lý bằng Thông báo số 06A/TB-TA ngày 28/02/2022), về việc xác định bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn trái pháp luật, do đó buộc bị đơn thanh toán cho bà T tiền bồi thường những ngày không được làm việc, BHXH, BHYT, BHTN, trợ cấp, tiền thưởng tết tổng cộng là 423.357.000 đồng.
Tuy nhiên tại biên bản phiên tòa sơ thẩm cũng như theo sự xác nhận của bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm thì: bà Nguyễn An Thu T1 đã tham gia phiên tòa sơ thẩm và tự nguyện rút lại một phần yêu cầu, chỉ yêu cầu số tiền 107.307.000 đồng theo đơn khởi kiện ngày 31/12/2020; do đó cấp sơ thẩm đã nhận định và xét xử trên yêu cầu đòi 107.307.000 đồng.
Xét yêu cầu này của nguyên đơn là vượt quá phạm vi xét xử của Tòa cấp sơ thẩm và vượt quá phạm vi kháng cáo. Ngoài ra nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ nào khác để chứng minh việc Công ty TNHH D không tái ký hợp đồng lao động với bà T1 là không đúng quy định của pháp luật. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn là bà Nguyễn An Thu T1. Giữ nguyên bản án Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
[4]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ như đã phân tích, nên chấp nhận.
[5]. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6]. Về án phí lao động phúc thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn An Thu T1 được miễn án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ Điều 36, Điều 47, Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012;
- Căn cứ Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014;
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là bà Nguyễn An Thu T1. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 25/2022/LĐ-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn An Thu T1 về việc bà T1 yêu cầu: Tuyên bố Công ty TNHH D chấm dứt hợp đồng lao động với bà T1 là trái pháp luật; yêu cầu Công ty TNHH D bồi thường cho bà T1 tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ ngày 06/11/2020 đến hết ngày 10/11/2020 là 2.307.000đ (Hai triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng); 04 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động (bao gồm 02 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động và 02 tháng tiền lương dự kiến bà T1 được hưởng cuối năm 2020 và Tết nguyên đán) theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Lao động là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng); bồi thường thiệt hại số tiền có giá trị bằng 03 tháng tiền lương cho bà T1 theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động là 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng), tổng cộng số tiền bà T1 yêu cầu Công ty TNHH D phải bồi thường cho bà T1 một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là 107.307.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu ba trăm lẻ bảy nghìn đồng).
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH D về việc: Yêu cầu bà Nguyễn An Thu T1 bồi thường toàn bộ thiệt hại tổng cộng số tiền là 116.081.540đ (Một trăm mười sáu triệu không trăm tám mươi mốt nghìn năm trăm bốn mươi đồng); yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi nếu phát hiện có dấu hiệu của tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự, đề nghị Tòa án tạm đình chỉ/đình chỉ vụ án để Công ty TNHH D tiến hành tố cáo tại cơ quan có thẩm quyền để điều tra làm rõ.
3. Về án phí lao động sơ thẩm:
Bà Nguyễn An Thu T1 được miễn nộp án phí lao động sơ thẩm.
H1 lại cho Công ty TNHH D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.902.039 (Hai triệu, chín trăm lẻ hai ngàn, không trăm ba mươi chín) đồng theo biên lai thu số 0086270 ngày 03/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi.
4. Về án phí lao động phúc thẩm: Bà Nguyễn An Thu T1 không phải nộp án phí phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 177/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 177/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 20/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về