Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 04/2020/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU 

BẢN ÁN 04/2020/LĐ-PT NGÀY 21/08/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số: 06/2020/TLPT-LĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 về việc: “ Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Do bản án lao động sơ thẩm số: 02/2020/LĐ-ST ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐ-PT ngày 04 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Phạm Thúy L - sinh năm 1980 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã L, thành phố C ., tỉnh Cà Mau. Bị đơn: Trường Mầm non M Địa chỉ: Ấp X, xã L, thành phố C ., tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Du Thị B - sinh năm 1980 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 79, đường Đinh Tiên Hoàng, khóm 4, phường 9, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Phạm Thúy L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, bà Phạm Thúy L trình bày:

Từ năm 2015 đến năm 2018, bà L có ký nhiều hợp đồng lao động (HĐLĐ) với Trường Mầm non M (sau đây gọi tắt là Trường), các hợp đồng được ký mỗi năm có thời hạn từ 01 đến 08 tháng, loại hợp đồng vụ việc làm nhiệm vụ là nhân viên cấp dưỡng. Mức lương năm đầu là 1.150.000 đồng/tháng và tăng dần hàng năm theo mức lương tối thiểu do nhà nước quy định. Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) do hai bên cùng đóng theo quy định pháp luật, riêng 03 tháng hè thì người lao động tự chịu. Trang phục bảo hộ lao động nhà trường hỗ trợ mỗi năm 01 bộ quần áo. Từ năm 2015 đến năm 2018, Trường không ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động mà đương nhiên được chấm dứt khi hết thời gian hợp đồng. Hợp đồng lao động cuối cùng được ký kết giữa Trường và bà L là Hợp đồng số 02/HĐLĐ, ngày 01/10/2018, thời hạn hợp đồng là 08 tháng, kể từ ngày 01/10/2018 đến 31/5/2019 (ghi nhằm là ngày 31/5/2018). Vào tháng 8 năm 2019, Trường có yêu cầu bà L và nhiều nhân viên khác có vào Trường để dọn dẹp vệ sinh và họp, thời gian 01 tháng. Vào ngày 06/9/2019, Trường đã mở cuộc họp để bàn về việc ký hợp đồng cho năm học mới đối với người lao động, cuộc họp có bà L tham dự. Tuy nhiên Trường chỉ mới bàn về việc ký hợp đồng chưa đưa ra Hợp đồng cụ thể, nên bà L yêu cầu Trường đưa Hợp đồng cho xem trước thì bà L mới đồng ý ký Hợp đồng. Bà L có nghe đọc biên bản nhưng không đồng ý ký tên vào biên bản do chưa bàn bạc thống nhất thỏa thuận việc ký kết hợp đồng. Ngày 26/8/2019, bà L nhận được Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/QĐ-MNSM ngày 30/5/2019 và Quyết định số 39/QĐ-MNSM ngày 26/8/2019 của Trường về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Do trường đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không thông báo trước cho người lao động nên hai quyết định do Trường ban hành là trái pháp luật, ảnh hưởng quyền lợi của bà về lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Do đó bà L yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Trường phải có trách nhiệm bồi thường cho bà L các khoản tiền do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, cụ thể như sau:

- Chi trả nợ lương từ ngày 01/6/2019 đến ngày khởi kiện 30/12/2019 với số tiền 10.330.000 đồng và tiền lương tính đến ngày xét xử sơ thẩm thêm số tiền 8.195.000 đồng.

- Chi trả tiền mất việc làm là 11.920.000 đồng (8 tháng x 1.490.000 đồng).

- Bồi thường tổn thất tinh thần với số tiền 10.430.000 đồng (tương đương 7 tháng x 1.490.000 đồng).

- Chi trả trợ cấp thôi việc với số tiền 2.980.000 đồng (02 tháng x 1.490.000đ).

- Bồi thường chi phí khám sức khỏe định kỳ với số tiền 318.000 đồng.

- Bồi thường tiền mua vải may đồng phục đã nộp với số tiền 400.000 đồng.

- Bồi thường hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tháng 6,7,8/2019 với số tiền 667.500 đồng (tương đương 03 tháng x 222.500 đồng).

- Bồi thường tiền chấm dứt hợp đồng lao động không thông báo trước với số tiền 1.490.000 đồng.

- Yêu cầu Trường mầm non M trả tiền đóng BHXH, BHYT trong những ngày bà L không được làm việc từ tháng 9/2019 đến tháng 12/2019 với số tiền 1.216.800 đồng và trả chế độ đóng BHXH, BHYT theo quy định pháp luật từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019 với số tiền 2.737.800 đồng.

Tổng số tiền là 50.685.000 đồng. Không yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 15/QĐ-MNSM ngày 30/5/2019 và Quyết định số 39/QĐ-MNSM ngày 26/8/2019. Không yêu cầu Trường mầm non M nhận trở lại làm việc.

Bị đơn Trường mầm non M – Người đại diện theo ủy quyền là bà Du Thị B trình bày:

Trường chấm dứt Hợp đồng lao động với bà L là do hết hạn hợp đồng lao động nên Trường không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bà L. Tuy nhiên, tháng 8 năm 2019 (tháng hè) bà L có vào Trường dọn vệ sinh, dự họp thời gian khoảng 05 ngày. Trường tự nguyện hỗ trợ cho bà L số tiền 1.690.000 đồng (tính tròn 01 tháng lương thực lãnh của bà L).

Tại bản án Lao động sơ thẩm số 02/2020/LĐ-ST ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thúy L về việc buộc Trường Mầm non M bồi thường thiệt hai các khoản: Chi trả nợ lương, tiền lương; tiền mất việc làm; tiền tổn thất tinh thần; tiền trợ cấp thôi việc; chi phí khám sức khỏe định kỳ; tiền mua vải may đồng phục; bồi thường hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; bồi thường tiền chấm dứt hợp đồng lao động không thông báo trước; trả tiền đóng BHXH, BHYT trong những ngày không được làm việc. Tổng các khoản bằng số tiền 50.685.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của Trường mầm non M về việc hỗ trợ cho bà Phạm Thúy L tiền công lao động trong những ngày hè tháng 8 năm 2019 là 1.690.000 đồng.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03/7/2020 bà Phạm Thúy L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thúy L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Giữa bà L và Trường M có ký hợp đồng lao động theo vụ việc trong từng năm, từ năm 2015 đến năm 2019. Thời hạn của mỗi hợp đồng ít nhất là 01 tháng, nhiều nhất là 10 tháng. Cả hai bên đương sự đều thống nhất khi ký kết hợp đồng lao động là loại hợp đồng theo vụ việc và thời gian 03 tháng hè thì giữa bà L với nhà Trường không có ký hợp đồng lao động, nhà Trường không có trả lương cũng như không đóng bảo hiểm cho bà L. Bà L cho rằng giữa bà L và Trường M đã xác lập quan hệ hợp đồng từ năm 2015 đến năm 2019 là căn cứ vào việc bà L có đóng bảo hiểm liên tục các tháng hè mặc dù các tháng hè không ký hợp đồng, việc đóng tiền là do Trường M thu từ bà L và đóng hộ. Căn cứ hợp đồng lao động số 02/HĐLĐ ngày 01/10/2018 và hợp đồng lao động số 05/HĐLĐ ngày 01/9/2018 do Hiệu trưởng Trường M ký với bà L thì hai bên giao kết hợp đồng lao động theo vụ việc có thời hạn dưới 12 tháng (từ ngày 01/10/2018 đến ngày 31/5/2019) theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 22 Bộ luật lao động. Do đó, hợp đồng lao động đương nhiên chấm dứt vào ngày 31/5/2019 nếu Trường M không tiếp tục ký hợp đồng mới với bà L. Vì vậy, về trình tự thủ tục thì không bắt buộc Trường M phải ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 15/QĐ-MNSM ngày 30/5/2019 và quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 39/QĐ-MNSM ngày 26/8/2019 với bà L do bà L không tiếp tục các công việc tại Trường từ ngày 01/6/2019. Cũng như không cần thiết phải có ý kiến của bà L đồng ý hay không đồng ý chấm dứt hợp đồng vì điều này đã thể hiện rõ trên hợp đồng lao động đã giao kết. Do đó bà L cho rằng trường ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà trái pháp luật là không có cơ sở.

[2] Xét yêu cầu trả lương tháng 8 và các ngày đầu tuần tháng 9 của bà L, Hội đồng xét xử xét thấy, bà L xác định tháng 8/2019 bà L vào làm việc tại Trường M hết tháng nhưng Trường thừa nhận bà L chỉ làm việc 05 ngày trong tháng 8 và tháng 9/2019. Bà L không chứng minh là bà L thực hiện công việc từ ngày 8/8 đến ngày 31/8/2019 và các ngày tuần đầu tháng 9/2019. Trong nội dung tường thuật đoạn ghi âm bà L cung cấp là bà L có lao động nhưng không rõ cụ thể từng ngày, làm công việc gì, nên Trường M đồng ý hỗ trợ 01 tháng tiền lương cho bà L là 1.690.000 đồng là phù hợp. Xét đây là sự tự nguyện của Trường, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận. Do đó, không có căn cứ buộc Trường M phải trả tiền lương tháng 8 và các ngày đầu tuần tháng 9 cho bà L.

[3] Đối với nội dung bà L kháng cáo cho rằng án sơ thẩm không xem xét yêu cầu Trường trả lại tiền đóng bảo hiểm cho bà L. Xét bản án sơ thẩm không chấp nhận khởi kiện của bà L nên không nhận định cụ thể các khoản bà L yêu cầu, trong đó có nội dung liên quan đến việc đóng bảo hiểm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà L xác định đã đóng bảo hiểm đến tháng 8/2019, số tiền đóng bảo hiểm là do khi ký nhận tiền lương thì kế toán của Trường tự trừ 450.000 đồng nhưng không có thỏa thuận trước với người lao động. Phía Trường thì khẳng định số tiền Trường trừ khoảng 445.000 đồng là do đã thỏa thuận trước với người lao động, phía Trường đóng 21,5% và người lao động đóng 10,5%. Căn cứ vào lời trình bày của hai bên thì có cơ sở chấp nhận lời trình bày của phía Trường M là do căn cứ hợp đồng lao động số 02/HĐLĐ ngày 01/10/2018 thể hiện tiền lương là 1.390.000 đồng (BL 24) danh sách thuê hợp đồng vụ việc bà L ký nhận là 1.690.000 đồng, do đó Trường và bà L cùng đóng bảo hiểm là có căn cứ. Nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà L buộc Trường phải thanh toán lại số tiền đã đóng bảo hiểm.

[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bà L là có cơ sở nên chấp nhận.

[5] Ngoài ra, bản án sơ thẩm quyết định không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L nhưng không nêu cụ thể những yêu cầu gì, nên cấp phúc thẩm điều chỉnh tuyên cụ thể từng phần theo đơn khởi kiện của đương sự.

[6] Về án phí: Bà Phạm Thúy L thuộc trường hợp miễn án phí. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ Luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thúy L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2020/LĐ-ST ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thúy L về việc buộc bị đơn Trường Mầm non M bồi thường cho nguyên đơn các khoản: Chi trả nợ lương, tiền lương; tiền mất việc làm; tiền tổn thất tinh thần; tiền trợ cấp thôi việc; chi phí khám sức khỏe định kỳ; tiền mua vải may đồng phục; bồi thường hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; bồi thường tiền chấm dứt hợp đồng lao động không thông báo trước; trả tiền đóng BHXH, BHYT trong những ngày không được làm việc. Tổng các khoản bằng số tiền 50.685.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của Trường mầm non M về việc hỗ trợ cho bà Phạm Thúy L tiền công lao động trong những ngày hè tháng 8 năm 2019 là 1.690.000 đồng (Một triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành không thanh toán xong khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

Án phí lao động sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Phạm Thúy L được miễn.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 04/2020/LĐ-PT

Số hiệu:04/2020/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về