Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 01/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CN THƠ

BẢN ÁN 01/2024/LĐ-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Trong các ngày 05, 10, 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2023/TLST-LĐ ngày 24 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 994/2023/QĐXXST-LĐ ngày 13 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Trần Tú A, sinh năm 1965.

Địa chỉ: Số I, đường T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Kim H, sinh năm 1963.

Địa chỉ: Số I, đường T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ (Theo văn bản ủy quyền ngày 23/8/2023).

- B đơn: Tổng Công ty Cổ phần B.

Trụ sở: Số A - A, đường số E, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền:

1/ Ông Đặng Văn L - Phó Giám đốc Ban N.

2/ Bà Đinh Thị Như Ý - Phó Bộ phận Ban Pháp chế.

Cùng địa chỉ liên lạc: Số A - A, đường số E, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Bà Ngô Thị Sao L1 - Kế toán Chi nhánh C.

Địa chỉ liên lạc: Số I, đường T, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ (Theo văn bản ủy quyền ngày 08/12/2023).

(Tất cả các đương sự đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trnh Kim H trình bày: Vào ngày 01/03/2017 bà Trần Tú A và Công ty Cổ phần B1 ký kết Hợp đồng lao động số: 0001-00217/HĐLĐ-AAA.MT tại Văn phòng Công ty. Theo hợp đồng lao động thì bà Trần Tú A làm việc tại chi nhánh B2 với chức danh nhân viên kinh doanh, hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Trong quá trình làm việc gần 09 năm, bà Tú A luôn thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, đáp ứng chỉ tiêu doanh thu theo yêu cầu công ty. Tuy nhiên, vào ngày 21/11/2022 Công ty đã có sự thay đổi nhân sự Ban điều hành, tái cấu tổ chức nhân sự, đổi tên chi nhánh B2 thành chi nhánh C trực thuộc Công ty. Ban điều hành chi nhánh C bao gồm Giám đốc chi nhánh, kế toán, kinh doanh do Công ty mới vào đã thực sự không tạo điều kiện cho bà Tú A tiếp tục bán bảo hiểm, tự ý lập Biên bản họp ngày 09/12/2022 để dừng công việc bán hàng và trình trả bà Tú A về Công ty. Sau khi theo dõi bà Tú A thu hồi công nợ, tiền về tài khoản công ty xong ngày 29/12/2022 là chấm dứt hợp đồng lao động với bà Tú A vào ngày hôm sau. Theo đó, Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C ra thông báo số: 01/2023/TB-AAA.CT chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A, kể từ ngày 30/12/2022 với lý do: Bà Trần Tú A đã tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng trên 05 ngày làm việc liên tục kể từ ngày 01/12/2022.

Sau khi ra thông báo trên, Công ty đã không giải quyết quyền lợi cho bà Tú A theo quy định pháp luật hiện hành nên bà Tú A khởi kiện yêu cầu các vấn đề sau:

- Yêu cầu Công ty Cổ phần B1 phải trả tiền lương còn thiếu tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng và lương tháng 12/2022 là 3.939.312 đồng.

- Yêu cầu Công ty Cổ phần B1 phải trả tiền còn thiếu cấn trừ theo bảng quyết toán 02 hợp đồng phát sinh tại chi nhánh C trong tháng 12/2022 là 1.209.231 đồng.

- Yêu cầu Công ty Cổ phần B1 phải hủy bỏ Thông báo về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số: 01/2023/TB-AAA.CT đề ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C vì Thông báo này căn cứ trên hợp đồng lao động không tồn tại bà Tú A không có ký hợp đồng lao động với Chi nhánh C và bảng chấm công đính kèm thiếu chính xác.

- Yêu cầu Công ty Cổ phần B1 phải nhận bà Tú A trở lại làm việc theo Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số: 0001-00217/HĐLĐ-AAA.MT đã ký tại Văn phòng Công ty.

- Yêu cầu Công ty Cổ phần B1 phải trả tiền lương, thưởng tháng 13/2022, tiền 13 ngày phép năm chưa sử dụng, lương thưởng, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà Tú A không được làm việc và phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

- Bồi thường tiền thiệt hại từ thu nhập do tiết kiệm được so với định mức khoán chi phí kinh doanh, hoa hồng Công ty giao mà bà Tú A không có khi không được làm việc với số tiền là 15.059.454 đồng/tháng tính từ tháng 12/2022 cho đến khi bà Tú A được nhận trở lại làm việc.

* Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ v án đi din theo ủy quyền của b đơn trình bày: Đối với các yêu cầu của bà Trần Tú A, bị đơn có ý kiến như sau:

- Đồng ý các khoản:

+ Thanh toán tiền lương tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng.

+ Thanh toán số tiền 1.209.231 đồng do cấn trừ theo bảng quyết toán 02 hợp đồng phát sinh tại chi nhánh trong tháng 12/2022 của nguyên đơn nếu nguyên đơn đến nơi làm việc của chi nhánh để ký các chứng từ và hồ sơ theo yêu cầu của bị đơn.

- Không đồng ý các khoản:

+ Thanh toán tiền lương tháng 12/2022 là 3.939.312 đồng. Lý do tại Bảng chấm công tháng 12/2022 và Biên bản họp ngày 09/12/2022 đều thể hiện bà Tú A không đến nơi làm việc suốt tháng 12/2022.

+ Hủy bỏ Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 về việc chấm dứt hợp đồng lao động. Lý do, bà Tú A đã tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên nên việc bị đơn chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn là có căn cứ và thông báo trên được ban hành đúng thẩm quyền do bị đơn đã ủy quyền cho Giám đốc chi nhánh được quyết định các vấn đề nhân sự từ cấp Trưởng Phòng Kinh doanh và nhân viên kinh doanh.

+ Nhận bà Tú A trở lại làm việc theo Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 0001-00217/HĐLĐ-AAA.MT đã ký tại văn phòng Công ty. Bởi lẽ, các vi phạm của nguyên đơn nên bị đơn không đồng ý nhận nguyên đơn trở lại làm việc.

+ Thanh toán tiền lương, tiền thưởng tháng 13/2022 và thanh toán 13 ngày phép năm chưa sử dụng, thưởng lễ, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian đương sự không làm việc và thanh toán khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao đồng. Lý do giống như viện dẫn bị đơn chấm dứt hợp đồng với bà Tú A đúng quy định nên bị đơn không đồng ý yêu cầu này.

+ Bồi thường thiệt hại với số tiền là 15.059.454 đồng yêu cầu này là không có căn cứ, bởi lẽ, theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 được hướng dẫn bởi khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế, xác định được tại thời điểm yêu cầu bồi thường, nguyên đơn chỉ dựa trên con số ước tính, không có căn cứ và không phù hợp quy định pháp luật. Hợp đồng lao động của nguyên đơn đã chấm dứt từ tháng 12/2022.

Ti phiên tòa, - Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trịnh Kim H trình bày: Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C có nội dung chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A với lý do tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng trên 05 ngày làm việc liên tục kể từ ngày 01/12/2022 là không đúng. Bởi lẽ, tháng 12/2022 địa chỉ chi nhánh C để chấm công là tại tầng 4, số D, đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, không phải số I đường T, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. Toàn bộ con dấu và bảng chấm công thể hiện trụ sở chi nhánh tại quận N, không phải quận C. Ngoài ra, bị đơn không chứng minh được việc chấm công được thực hiện như thế nào? Hơn nữa, sau khi thay đổi cơ cấu nhân sự thì Giám đốc chi nhánh C yêu cầu bà Trần Tú A tự viết đơn xin nghỉ việc, chứ không phải do muốn chấm dứt hợp đồng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết như sau:

+ Hủy bỏ Thông báo về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số: 01/2023/TB- AAA.CT đề ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C.

+ Buộc bị đơn phải trả tiền lương còn thiếu tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng và lương tháng 12/2022 là 3.939.312 đồng.

+ Buộc bị đơn trả tiền còn thiếu cấn trừ theo bảng quyết toán 02 hợp đồng phát sinh tại chi nhánh C trong tháng 12/2022 là 1.209.231 đồng.

+ Buộc bị đơn phải trả tiền lương, thưởng tháng 13/2022, tiền 13 ngày phép năm chưa sử dụng và 45 ngày do vi phạm thời hạn báo trước.

+ Buộc bị đơn thanh toán tiền lương năm 2023, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà Tú A không được làm việc và phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động theo khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019.

+ Do bị đơn không đồng ý nhận lại làm việc nên yêu cầu bồi thường các khoản theo khoản 3 Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019.

+ Rút lại yêu cầu bồi thường tiền thiệt hại từ thu nhập do tiết kiệm được so với định mức khoán chi phí kinh doanh, hoa hồng Công ty giao mà bà Tú A không có khi không được làm việc với số tiền là 15.059.454 đồng/tháng tính từ tháng 12/2022 cho đến khi bà Tú A được nhận trở lại làm việc.

- Đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Đinh Thị Như Ý trình bày: Việc Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C ban hành Thông báo về việc chấm dứt Hợp đồng lao động số: 01/2023/TB-AAA.CT đề ngày 10/01/2023 đối với bà Trần Tú A là phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi căn cứ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định “Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên” thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải báo trước 45 ngày. Theo Bảng chấm công tháng 12/2022 thì bà Trần Tú A đã không đến chi nhánh C để làm việc 22 ngày trong tháng 12 năm 2022. Việc nguyên đơn cho rằng không biết địa chỉ chi nhánh C chuyển về số I đường T, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ là không chính xác. Vì việc chuyển trụ sở chi nhánh được công bố công khai đến tất cả các nhân viên, đồng thời Bộ T1 có thông báo về việc thay đổi địa chỉ chi nhánh C thể hiện cụ thể địa chỉ tại phường H, quận C, thành phố Cần Thơ. Đồng thời, việc thay đổi địa chỉ trụ sở chi nhánh đã được tiến hành từ ngày 01/12/2022, lý do con dấu cũng như mã số thuế vẫn ghi địa chỉ quận N là vì chỉ khi Bộ T1 có văn bản chấp thuận về việc thay đổi địa chỉ trụ sở chi nhánh thì mới thực hiện được thủ tục thay đổi con dấu, mã số thuế.

Do Công ty Cổ phần B1 đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà Trần Tú A là đúng quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận các yêu cầu bồi thường của nguyên đơn. Phía bị đơn đồng ý thanh toán tiền lương tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng và tiền quyết toán 02 hợp đồng phát sinh tại chi nhánh trong tháng 12/2022 của nguyên đơn với số tiền 1.209.231 đồng. Đối với yêu cầu bồi thường tiền thiệt hại từ mất thu nhập 15.059.454 đồng/tháng do nguyên đơn đã rút lại nên bị đơn không có ý kiến.

- Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Đặng Văn L, bà Ngô Thị Sao L1 trình bày: Thống nhất với nội dung trình bày của bà Đinh Thị Như Ý, không bổ sung gì thêm.

Ý kiến của đại diện Viện kim sát:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án tuân theo pháp luật; những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Việc thụ lý vụ án của Tòa án là đúng thẩm quyền, việc xác định tư cách tố tụng là phù hợp.

- Về nội dung: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Tú A về việc yêu cầu bồi thường tiền thiệt hại do mất thu nhập 15.059.454 đồng/tháng.

+ Ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự về việc bị đơn thanh toán tiền lương tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng và tiền quyết toán 02 hợp đồng phát sinh tại chi nhánh trong tháng 12/2022 là 1.209.231 đồng.

+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hủy Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - Chi nhánh C. Buộc bị đơn thanh toán tiền lương tháng 12, 13 năm 2022; bồi thường tiền lương năm 2023 và 02 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật; bồi thường tiền trợ cấp thôi việc và 02 tháng tiền lương do không đồng ý nhận người lao động lại làm việc theo đúng quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019. Ngoài ra, buộc bị đơn có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Tú A trong năm 2023.

+ Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Tú A về việc buộc bị đơn bồi thường tiền 13 ngày phép năm chưa sử dụng và tiền lương do vi phạm thời gian báo trước 45 ngày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Trần Tú A khởi kiện yêu cầu hủy Thông báo về việc chấm dứt hợp đồng lao động số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C. Đồng thời, buộc bị đơn Tổng Công ty Cổ phần B thanh toán tiền lương, tiền thưởng, đóng các khoản bảo hiểm v.v... Quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm đ khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

- Theo đơn khởi kiện bà Trần Tú A khởi kiện Công ty Cổ phần B1, tuy nhiên tại Giấy phép điều chỉnh số 30/GPĐC34/KDBH ngày 19/9/2023 của Bộ T1 thì Công ty Cổ phần B1 đã đổi tên thành Tổng Công ty Cổ phần B. Do đó, Tòa án xác định Tổng Công ty Cổ phần B là bị đơn trong vụ án, theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 48 Nghị định số: 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Yêu cầu khởi kiện của bà Trần Tú A vẫn còn thời hiệu theo quy định tại khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao động năm 2019.

- Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bị đơn bồi thường tiền thiệt hại từ thu nhập do tiết kiệm được so với định mức khoán chi phí kinh doanh, hoa hồng công ty giao mà bà Tú A không có khi không được làm việc với số tiền là 15.059.454 đồng/tháng tính từ tháng 12/2022 cho đến khi bà Tú A được nhận trở lại làm việc. Xét việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung:

[3.1] Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày bà Trần Tú A bắt đầu làm việc tại Công ty Cổ phần B1 từ khoảng tháng 03/2014, sau thời gian thử việc bắt đầu làm chính thức từ tháng 5/2014, lần đầu ký hợp đồng có thời hạn 01 năm, lần hai ký tiếp hợp đồng có thời hạn 02 năm, đến năm 2017 mới ký hợp đồng không có thời hạn. Ngược lại, đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng do Tổng Công ty Cổ phần B thay đổi chủ sở hữu, thay đổi bộ máy tổ chức nên hiện tại chỉ biết được Hợp đồng lao động số: 0001 -00217/HĐLĐ-AAA.MT ngày 01/3/2017 giữa bà Trần Tú A với Công ty Cổ phần B1, các hợp đồng lao động trước đây không rõ.

Xét theo Sổ Bảo hiểm xã hội số 7914013730 cấp cho bà Trần Tú A ngày 09/5/2014 thể hiện cụ thể tên chủ sử dụng lao động là Công ty Cổ phần B1, từ năm 2014 đến năm 2022 đều do Công ty Cổ phần B1 thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho bà Tú A. Hơn nữa, theo Phiếu thay đổi nhân sự ngày 21/8/2019 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh Đ1 thể hiện ngày vào Công ty của bà Trần Tú A là ngày 07/01/2014. Do đó, có cơ sở xác định giữa Tổng Công ty Cổ phần B với bà Trần Tú A đã xác lập quan hệ lao động từ ngày 07/01/2014.

Theo Hợp đồng lao động số: 0001-00217/HĐLĐ-AAA.MT ngày 01/3/2017 giữa bà Trần Tú A với Công ty Cổ phần B1 thể hiện hợp đồng lao động là không có thời hạn, theo đó bà Tú A là nhân viên kinh doanh với mức lương cơ bản là 3.552.400 đồng, tiền lương thực lãnh trong tháng được tính theo tỷ lệ % doanh thu đạt được. Ngày 22/8/2019, các bên ký Phụ lục Hợp đồng lao động số 481/2019/QĐNS-AAA thay đổi mức lương của bà Trần Tú A là 4.472.600 đồng, nơi làm việc tại chi nhánh Đ1. Sau đó, các bên tiếp tục ký Phụ lục Hợp đồng lao động số 11/2022/QĐNS-AAA ngày 01/3/2022, thay đổi mức lương của bà Tú A là 4.194.400 đồng, nơi làm việc tại chi nhánh B2. Đến ngày 10/01/2023, Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C ban hành Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT về việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A với lý do tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng trên 05 ngày làm việc liên tục kể từ ngày 01/12/2022. Đồng thời, để chứng minh cho việc đơn phương chấm dứt hợp đồng là đúng quy định của pháp luật, phía bị đơn có cung cấp Bảng chấm công tháng 12/2022 thể hiện bà Trần Tú A vắng mặt trong tất cả 22 ngày làm việc trong tháng 12/2022.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày theo nội quy lao động Công ty thì thời gian làm việc một ngày là 08 giờ, một tháng 22 ngày theo đúng quy định của luật lao động. Đối với các chi nhánh sẽ do các Giám đốc chi nhánh quyết định thời gian làm việc, quy chế chấm công. Riêng đối với chi nhánh C trước đây không có bảng chấm công, đến tháng 12/2022 do thay đổi Bộ máy quản lý của Công ty cũng như chi nhánh thì Giám đốc chi nhánh C mới quyết định chấm công đối với nhân viên kinh doanh. Phương thức chấm công sẽ do trưởng nhóm thực hiện, bảng chấm công cuối tháng trưởng nhóm gửi về kế toán chi nhánh để tổng hợp. Đối với nhóm kinh doanh của bà Trần Tú A là do ông Lê Tuấn Đ thực hiện, cách thức chấm công xác định ngày làm việc như thế nào là do ông Đ quyết định. Đồng thời, việc xác định bà Trần Tú A vi phạm thời gian làm việc là xuất phát từ việc chi nhánh C nhiều lần mời đến làm việc nhưng bà Tú A không thực hiện.

Hội đồng xét xử xét thấy, theo Nội quy lao động của Công ty Cổ phần B1 tại Điều 4 quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với nhân viên văn phòng công ty, nhân viên giám định hiện trường và nhân viên dịch vụ khách hàng mà không có quy định thời giờ làm việc đối với nhân viên kinh doanh của Công ty. Trong khi đó theo nội dung hợp đồng lao động đã ký kết thì công việc của bà Trần Tú A là nhân viên kinh doanh bảo hiểm nên thời gian làm việc tự do, điều này phù hợp với nội dung Biên bản họp ngày 09/12/2022 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C “Thời gian làm việc của Nhân viên kinh doanh tự do nhưng phải thông báo qua nhóm Kinh doanh của Phòng”. Hơn nữa, như đại diện của bị đơn đã trình bày tại Chi nhánh C không có quy chế chấm công cụ thể mà do T nhóm quyết định, việc có mặt hoặc vắng mặt tại chi nhánh không phải là cơ sở để xác định ngày làm việc của nhân viên kinh doanh. Do đó, trong 11 tháng đầu năm 2022 bị đơn xác định bà Trần Tú A làm việc đầy đủ các ngày trong tháng và không có sử dụng ngày nghỉ phép. Ngoài ra, căn cứ theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 649 và số 650 ngày 08/12/2022 cũng như trình bày của bị đơn tại phiên tòa thừa nhận trong tháng 12/2022 bà Trần Tú A bán được 02 hợp đồng bảo hiểm cho Trung tâm Quản lý nhà ở và chất lượng công trình xây dựng (Bảo hiểm hàng xuất và Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp Kiến trúc sư và Kỹ sư tư vấn) đã được Tổng Công ty Cổ phần B chấp nhận. Như vậy, việc Bảng chấm công tháng 12/2022 thể hiện bà Trần Tú A nghỉ tất cả các ngày làm việc trong tháng 12 là không chính xác, không dựa trên nội quy lao động hoặc quy chế chấm công cụ thể.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy việc Giám đốc chi nhánh C ban hành thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A với lý do tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng trên 05 ngày làm việc liên tục kể từ ngày 01/12/2022 là không đúng. Do đó, việc bà Trần Tú A yêu cầu Tòa án tuyên hủy Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.2] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất với yêu cầu thanh toán tiền lương còn thiếu tháng 11/2022 là 3.939.312 đồng và tiền chiết khấu 02 hợp đồng mua bán bảo hiểm tháng 12 với số tiền là 1.209.231 đồng cho nguyên đơn. Xét thỏa thuận giữa các đương sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3.3] Do tháng 12/2022 bà Trần Tú A vẫn còn làm việc nên yêu cầu buộc Tổng Công ty Cổ phần B thanh toán tiền lương tháng 12/2022 với số tiền 3.939.312 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[3.4] Đối với yêu cầu trả lương tháng 13/2022 với số tiền 3.939.312 đồng.

Căn cứ Thông báo số 054/2023/TB-AAA ngày 12/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 thì đối tượng được thưởng cuối năm (thưởng lương tháng 13) “Không áp dụng đối với CBNV nghỉ việc trước ngày 10/01/2023 và các Chi nhánh có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch dưới 20%”. Theo bảng kê khai của Tổng Công ty Cổ phần B thì doanh thu phát sinh năm 2022 tại chi nhánh C là 1.329.096.797 đồng, bị đơn cho rằng chưa đạt doanh thu 20%/năm của năm 2022 nên yêu cầu thanh toán tiền lương tháng 13 với số tiền 3.939.312 đồng của nguyên đơn là không phù hợp.

Xét theo Hợp đồng lao động số: 0001-00217/HĐLĐ-AAA.MT ngày 01/3/2017 giữa bà Trần Tú A với Công ty Cổ phần B1 có nội dung: “Tiền thưởng: Theo chính sách công ty”. Đối chiếu với Thông báo số 054/2023/TB-AAA ngày 12/01/2023 thì bà Trần Tú A sẽ được thưởng lương tháng 13 khi có đủ điều kiện mà công ty đưa ra. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị đơn cho rằng chỉ tiêu năm 2022 của chi nhánh C là 7.000.000.000 đồng nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cũng như không xác định được chỉ tiêu này được Công ty giao cho chi nhánh C là dựa trên văn bản nào? Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động cần chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

[3.5] Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải có nghĩa vụ: “... phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động”.

Đối chiếu với quy định tại điểm a khoản 5 Điều 8 Nghị định số: 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định: “Tiền lương để tỉnh trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc, mất việc làm”. Theo Phụ lục Hợp đồng lao động số 11/2022/QĐNS-AAA ngày 01/3/2022 thể hiện mức lương bình quân của bà Trần Tú A trước khi thôi việc là 4.194.400 đồng/tháng.

Từ ngày 01/01/2023 đến ngày xét xử sơ thẩm 05/01/2024 là 12 tháng cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động: 14 tháng x 4.194.400 đồng/tháng = 58.721.600 đồng.

[3.5] Tổng thời gian làm việc của bà Trần Tú A tại Tổng Công ty Cổ phần B là 09 năm nên được hưởng tiền trợ cấp thôi việc là 4,5 tháng lương. Ngoài ra, do bị đơn không đồng ý nhận bà Trần Tú A lại làm việc nên ngoài khoản tiền trợ cấp thôi việc thì người sử dụng lao động phải thanh toán thêm ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động, theo quy định tại khoản 3 Điều 41, Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019; Điều 8 Nghị định số: 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ.

6,5 tháng x 4.194.400 đồng/tháng = 27.263.600 đồng.

[3.6] Xét yêu cầu trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày bà Trần Tú A không được làm việc.

Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019 thì bên cạnh việc phải trả tiền lương cho người lao động thì người sử dụng lao động còn phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc nên yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

Đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 86 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 1 Điều 15 Luật Bảo hiểm y tế năm 2008; khoản 2 Điều 44 Luật Việc làm năm 2013 và Điều 5, Điều 14, khoản 1 Điều 18 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc B3 thì tổng mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hiện nay là 32% tiền lương hằng tháng (Trong đó, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng 21,5%, còn người lao động có trách nhiệm đóng 10,5%). Theo Sổ bảo hiểm xã hội số 7914013730 cấp cho bà Trần Tú A thể hiện bị đơn đã đóng bảo hiểm xã hội hết năm 2022, do đó cần buộc Tổng Công ty Cổ phần B có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến hết ngày 31/12/2023. Tuy nhiên, do Tòa án buộc bị đơn thanh toán tiền lương cho nguyên đơn theo hợp đồng nên cần khấu trừ lại 10,5% trách nhiệm đóng hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của bà Trần Tú A.

[3.7] Đối với yêu cầu bị đơn thanh toán 13 ngày phép năm chưa sử dụng và thời gian báo trước 45 ngày.

Căn cứ khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động quy định: “Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ”. Xét tại Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 thì Công ty Cổ phần B1 chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A kể từ ngày 30/12/2022 là kết thúc năm 2022 nên mặc dù nguyên đơn còn đủ cả 13 ngày nghỉ hằng năm thì cũng không thể sử dụng được. Trong khi đó giữa bà Trần Tú A với Công ty Cổ phần B1 không có thể thỏa thuận về việc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần theo quy định tại Điều 114 Bộ luật Lao động. Vì vậy, yêu cầu thanh toán 13 ngày phép năm chưa sử dụng là không có cơ sở để chấp nhận.

Ngoài ra, theo Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 thì Công ty Cổ phần B1 chấm dứt hợp đồng lao động với bà Trần Tú A với lý do tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên. Căn cứ khoản 3 Điều 36 Bộ luật Lao động quy định khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp do người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động. Do đó, trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động này Tổng Công ty Cổ phần B không cần phải báo trước 45 ngày cho bà Trần Tú A biết. Vì vậy, yêu cầu buộc bị đơn trả tiền lương do vi phạm thời gian báo trước 45 ngày của nguyên đơn cũng không có cơ sở để chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Tú A.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 12, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

+ Nguyên đơn bà Trần Tú A được miễn nộp tiền án phí phải chịu.

+ Bị đơn Tổng Công ty Cổ phần B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối được Tòa án chấp nhận.

[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm đ khoản 1 Điều 40, khoản 3 Điều 68, Điều 147, Điều 235, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Khoản 3 Điều 36, Điều 39, khoản 1 Điều 41, Điều 46, khoản 3 Điều 113, Điều 114, khoản 3 Điều 187, khoản 1 Điều 188, khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Lao động năm 2019 - Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 86 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

- Khoản 1 Điều 15 Luật Bảo hiểm y tế năm 2008;

- Khoản 2 Điều 44 Luật Việc làm năm 2013;

- Điều 5, Điều 14, khoản 1 Điều 18 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc B3;

- Điều 8 Nghị định số: 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ - Khoản 3 Điều 48 Nghị định số: 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ - Điểm a khoản 1 Điều 12, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Tú A.

- Hủy Thông báo số 01/2023/TB-AAA.CT ngày 10/01/2023 của Công ty Cổ phần B1 - chi nhánh C do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà Trần Tú A.

- Buộc Tổng Công ty Cổ phần B có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Tú A tổng số tiền là 99.012.367 đồng (Chín mươi chín triệu, không trăm mười hai nghìn, ba trăm sáu mươi bảy đồng), gồm các khoản tiền sau:

+ Tiền lương tháng 11, 12 và thưởng lương tháng 13 năm 2023 là 11.817.936 đồng.

+ Tiền chiết khấu 02 hợp đồng mua bán bảo hiểm tháng 12 với số tiền là 1.209.231 đồng.

+ Bồi thường tiền lương năm 2023 và 02 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là 58.721.600 đồng.

+ Bồi thường tiền trợ cấp thôi việc và 02 tháng tiền lương do không đồng ý nhận người lao động lại làm việc với số tiền 27.263.600 đồng.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Buộc Tổng Công ty Cổ phần B có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Tú A tại Bảo hiểm xã hội Q, Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01/01/2023 đến hết ngày 31/12/2023 với mức lương 4.194.400 đồng/tháng. Bà Trần Tú A có nghĩa vụ thanh toán lại 10,5% trách nhiệm đóng hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động cho Tổng Công ty Cổ phần B.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Tú A về việc buộc Tổng Công ty Cổ phần B bồi thường tiền lương 13 ngày phép năm chưa sử dụng và bồi thường tiền lương do vi phạm thời gian báo trước 45 ngày.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Tú A về việc buộc Tổng Công ty Cổ phần B bồi thường tiền thiệt hại do mất thu nhập với số tiền là 15.059.454 đồng/tháng tính từ tháng 12/2022 cho đến khi bà Tú A được nhận trở lại làm việc.

4. Về án phí lao động sơ thẩm:

+ Nguyên đơn bà Trần Tú A được miễn nộp tiền án phí phải chịu.

+ Bị đơn Tổng Công ty Cổ phần B phải chịu 4.950.000 đồng (Bốn triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kề từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết), để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 01/2024/LĐ-ST

Số hiệu:01/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về