TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 03/2024/LĐ-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN LƯƠNG, TIỀN BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 15 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2023/TLST-LĐ ngày 15 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp tiền lương và bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-LĐ ngày 22 tháng 12 năm 2023; Thông báo mở lại phiên tòa số 02/2024/TBST ngày 29 tháng 01 năm 2024 ; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2024/QĐST - LĐ ngày 26 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1973. Địa chỉ: Số 90 ấp 3, xã Bình T, thành phố T, tỉnh Long An.
Đại diện theo ủy quyền của bà L là
1/ Ông Nguyễn Tuấn D, sinh năm 1987; (có mặt) Địa chỉ: 08 Cao VL, Phường E, thành phố T, tỉnh Long An.
2/ Ông Trần Văn Th, sinh năm 1986;
Địa chỉ: Ấp 2, xã Mỹ T, huyện TT, tỉnh Long An.
3/ Ông Võ Minh K, sinh năm 1997; Địa chỉ: Ấp Kênh N, xã Bình Đ, huyện Bến L, tỉnh Long An.
4/ Bà Huỳnh Thị MT, sinh năm 1995;
Địa chỉ: 63D Quốc lộ 50, Khu 1B, thị trấn Cần Đ, huyện Cần Đ, tỉnh Long An.
(Theo giấy ủy quyền ngày 14/9/2023)
2. Bị đơn: Công ty TWG.
Địa chỉ trụ sở: Số 136C tỉnh lộ 827, khu phố B1, thành phố T, tỉnh Long An. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Tr (vắng mặt)
Địa chỉ: Số 25-27 Đỗ TT, phường Tân Q, quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Văn bản ủy quyền số 06/2024/GUQ-TAH ngày 11/01/2024) 3.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An Địa chỉ trụ sở: Số 08 tuyến tránh, Quốc lộ 1, Phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/10/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn do ông Nguyễn Tuấn D đại diện trình bày:
Ngày 07/8/2020 bà Nguyễn Thị Thùy L và Công ty TWG ký kết hợp đồng lao động số 283/2020/HĐLĐ-BVSNLA và phụ lục hợp đồng lao động số 01/283/2020/PLLĐ, loại hợp đồng không xác định thời hạn, đăng ký hành nghề tại Công ty TWG (gọi tắt là TWG) theo chứng chỉ hành nghề số 000554/LA-CCHN ngày 25/10/2012 do Sở y tế tỉnh Long An cấp. Tổng cộng tiền lương mỗi tháng của bà L theo hợp đồng lao động là 52.450.000 đồng/tháng, lương cơ bản 12.000.000 đồng/tháng chưa bao gồm công tác phí và phí đào tạo. Sau nhiều tháng Công ty TWG không trả lương đầy đủ và không thanh toán lương trong hợp đồng đã ký kết nên bà L đã nộp đơn xin nghỉ việc.
Ngày 15/02/2023, Nguyễn Thị Thùy L nộp đơn xin nghỉ việc và bàn giao công việc. Bà L chính thức nghỉ việc ngày 01/4/2023. Từ tháng 9/2022 đến tháng 03/2023 (7 tháng) thì 4 tháng Công ty chỉ trả cho bà L lương cơ bản và 3 tháng không trả lương. Do đó, bà L nộp đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TWG thanh toán cho bà L số tiền lương còn thiếu từ ngày 01/09/2022 đến hết ngày 31/03/2023 tổng số tiền là: 275.349.481 đồng. Tiền lãi tính đến hết ngày 30/06/2023 là: 5.692.305 đồng. Ngoài ra Công ty TWG không đóng bảo hiểm xã hội cho bà L.
Ngày 20/12/2023, bà L có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện. Bà L yêu cầu Công ty TWG trả tiền lương còn thiếu là 267.576.283 đồng. Bà L rút lại yêu cầu tính lãi suất 5.692.305 đồng đối với số tiền lương chưa thanh toán. Buộc Công ty TWG đóng bảo hiểm xã hội cho bà L tương ứng với thời gian chậm đóng là 2 năm 6 tháng (từ tháng 8/2020 đến tháng 3/2023).
Bị đơn Công ty TWG do ông Nguyễn Văn Tr đại diện theo ủy quyền trình bày: Hiện tại Công ty TWG khó khăn và đang xin thủ tục tái cơ cấu để có nguồn thanh toán các công nợ tồn đọng. Đề nghị Toà án tạo điều kiện đến cuối tháng 3/2024 để chúng tôi lên phương án trả nợ cho các chủ nợ. Ngoài ra ông Tr không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là người lao động.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An, căn cứ công văn số 3064/BHXH-PQLT-ST ngày 14/12/2023 thì bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh ngày 20/10/1973, căn cước công dân số 080173011045, mã số BHXH 4804003841, chức danh là bác sĩ chuyên khoa II, khoa Sản được Công ty đăng ký tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN từ tháng 08/2020 đến tháng 03/2023 (02 năm 06 tháng), Công ty chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN của bà L với số tiền tạm tính là 63.818.714 đồng.
Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát:
Về tố tụng: quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Hội đồng xét xử đều tuân theo quy định pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo qui định pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lương và tiền bảo hiểm xã hội. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn tranh chấp đòi tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, bị đơn có trụ sở chính tại Phường 7, thành phố Tân An nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 32; Điểm c Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật là tranh chấp đòi tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An có thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Bị đơn và đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Tr đã được Tòa án thực hiện việc tống đạt thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Đơn khởi kiện, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, Thông báo mở lại phiên tòa, nhưng bị đơn và đại diện theo ủy quyền vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy L:
[3.1] Đối với yêu cầu đòi tiền lương: Các bên đương sự thống nhất ngày 07/8/2020 giữa bà Nguyễn Thị Thùy L và Công ty TWG có ký Hợp đồng lao động số 283/2020/HĐLĐ-BVSNLA và Phụ lục hợp đồng lao động số 01/283/2020/PLLĐ, loại hợp đồng không xác định thời hạn. Theo hợp đồng và phụ lục hợp đồng này thì bà L đã làm việc tại Bệnh viện sản nhi với tổng lương là 52.450.000 đồng/tháng, trong đó lương cơ bản 12.000.000 đồng/tháng, các khoản lương và phụ cấp khác, hình thức trả lương là chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng. Công ty không trả lương đầy đủ từ tháng 9/2022 đến tháng 3/2023, nên người lao động là bà L đã có đơn xin nghỉ việc và bàn giao công việc. Bà L đã nghỉ việc từ tháng 4/2023 đến nay. Do các đương sự thừa nhận sự việc này, nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Nay bà L có đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TWG trả tiền lương còn nợ từ tháng 09/2022 đến tháng 03/2023 là 267.576.283 đồng. Căn cứ Điều 35 Luật lao động việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của bà L là hợp pháp.
Căn cứ vào các “Phiếu lương tháng 09/2022 đến Phiếu lương tháng 03/2023” do nguyên đơn bà L cung cấp được gửi từ hộp thư điện tử Phòng nhân sự [email protected] của bị đơn đến địa chỉ email của nguyên đơn [email protected] có thể hiện rõ chi tiết lương từng tháng của bà L số tiền thực lãnh, đã thanh toán, chưa thanh toán với số tiền cụ thể bao nhiêu. Theo bản chi tiết sao kê giao dịch tài khoản của khách hàng Nguyễn Thị Thùy L từ Ngân hàng TMCP Sài Gòn và Ngân hàng TMCP Quân đội thể hiện nội dung: Công ty TWG, thanh toán lương cơ bản từng tháng là bao nhiêu. Theo bản sao kê Ngân hàng do bà L cung cấp thì từ tháng 9/2022 đến tháng 11/2022 và tháng 01/2023 thì Công ty TWG thanh toán lương cơ bản 12.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng của bà L. Tháng 05/2022 thanh toán lương tháng 5/2022 gồm 02 đợt là 25.361.000 đồng và 25.361.000 đồng, thanh toán lương tháng 7/2022 và tháng 8/2022 là 50.170.000 đồng. Qua đây chứng tỏ số tiền lương thực lãnh Công ty chuyển vào tài khoản cho người lao động cũng tương ứng với tổng lương 52.450.000 đồng/tháng mà các bên đã ký trong Hợp đồng lao động và phụ lục hợp đồng lao động.
Ngày 19/5/2023, tại Công ty TWG đã có buổi làm việc giữa ban đại diện Bệnh viện sản nhi với các cán bộ, nhân viên về việc thống nhất số tiền lương chưa thanh toán và tiến độ thanh toán lương. Bà L có yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi này. Bị đơn đã được tống đạt hợp lệ đơn khởi kiện, biên bản phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, đại diện bị đơn có ý kiến thừa nhận hiện tại Công ty khó khăn và đang xin thủ tục tái cơ cấu để có nguồn thanh toán các công nợ tồn đọng. Bị đơn không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện đòi tiền lương còn thiếu của nguyên đơn bà L nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi tiền lương của nguyên đơn.
[3.2] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện: Ngày 20/12/2023 nguyên đơn xin rút lại yêu cầu khởi kiện về việc tính lãi suất là 5.692.305 đồng phát sinh trên số tiền lương chậm thanh toán. Hội đồng xét xử xét thấy bà L rút yêu cầu này là tự nguyện. Căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện mà bà L đã rút.
[3.3] Đối với yêu cầu thanh toán tiền bảo hiểm xã hội:
Tại Công văn số 3064/BHXH-PQLT-ST ngày 14/12/2023 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An thì bà Nguyễn Thị Thùy L, có tham gia bảo hiểm xã hội theo số Sổ bảo hiểm là 4804003841 tại Công ty TWG, gồm các khoản BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì Công ty không đóng bảo hiểm đầy đủ cho bà L. Cụ thể, từ tháng 08/2020 đến tháng 03/2023 (02 năm 06 tháng), Công ty còn nợ Bảo hiểm xã hội tinh Long An tổng số tiền chậm đóng và tiền lãi chậm đóng đến tháng 12/2023 là chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN của bà L với số tiền tạm tính là 63.818.714 đồng, trong đó số tiền chậm đóng BHXH 53.850.759 đồng, tiền lãi chậm đóng BHXH 9.967.955 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không có ý kiến cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.
[4] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí 9.941.850 đồng theo Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 32; Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng Điều 90, 95, Điều 168 Bộ luật lao động; Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 85, Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội; Điều 12, 14, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thùy L với Công ty TWG về việc tranh chấp đòi tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội.
Buộc Công ty TWG phải trả cho bà Nguyễn Thị Thùy L số tiền lương còn thiếu là 267.576.283 đồng Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi thực hiện nghĩa vụ do chậm trả tiền theo quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian còn phải thi hành.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thùy L yêu cầu Công ty TWG trả cho bà số tiền lãi phát sinh do chậm trả lương là 5.692.305 đồng 3. Buộc Công ty TWG có nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm còn nợ (từ tháng 8/2020 đến tháng 3/2023) và tiền lãi chậm đóng đến tháng 12/2023 cho bà Nguyễn Thị Thùy L, mã số Sổ bảo hiểm là 4804003841 với số tổng tiền là 63.818.714 đồng, trong đó số tiền chậm đóng BHXH 53.850.759 đồng, tiền lãi chậm đóng BHXH 9.967.955 đồng theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế.
Công ty TWG còn phải chịu khoản tiền lãi do chậm đóng các khoản bảo hiểm trên cho Bảo hiểm xã hội tỉnh Long An với mức lãi suất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tương ứng với thời gian chậm đóng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty TWG phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 9.941.850 đồng.
5. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đòi tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội số 03/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 03/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 15/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về