Bản án về tranh chấp đòi tiền cho vay số 46/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 46/2022/DS-PT NGÀY 16/02/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN CHO VAY

Ngày 16/02/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 449/2021/DSPT ngày 16/12/2021 về việc “Tranh chấp đòi tiền cho vay”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 18/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 499/2021/QĐ-PT ngày 21/12/2021; giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn M S; sinh năm: 1958.

Đăng ký hộ khẩu thường trú: số x ngõ xx T kh, phường B, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền của ông S là ông Nguyễn Tiến T, sinh năm: 1995; địa chỉ liên hệ: Tầng 4 Tòa nhà xxx đường T Ch, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Vũ Kim H – Công ty Luật TNHH HQC

Địa chỉ: Tầng x Tòa nhà xxx đường T Ch, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Cao X T; sinh năm: 1966.

Địa chỉ: số x phố Bà Tr, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T M; sinh năm: 1964.

Địa chỉ: số x ngõ xx T kh, phường B, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn M S (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 2785/2020/GUQ lập ngày 13/10/2020 tại VPCC Hoàn Kiếm). Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Người kháng cáo: ông Nguyễn M S là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/8/2018 và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn M S trình bày như sau:

Do quen biết và tin tưởng lẫn nhau nên ngày 25/3/2013 vợ chồng ông Nguyễn M S và bà Nguyễn Thị T M đã cho ông Cao X T vay số tiền là 65.000USD với điều kiện khi nào ông S bà M cần thì sẽ báo trước 15 ngày, ông Tr sẽ có trách nhiệm trả số tiền đã vay.

Ngày 25/8/2014 ông Tr đã trả được số tiền là 20.000USD. Số tiền còn nợ lại là 45.000USD (tương đương với số tiền 955.000.000VNĐ theo tỷ giá ngày 25/8/2014 là 1USD = 21,23000đ). Do vậy cùng ngày 25/8/2014 giữa vợ chồng ông S bà M và ông Tr thỏa thuận lập giấy vay tiền mới đề ngày 25/8/2014 trong đó thỏa thuận quy đổi số tiền còn nợ là 45.000USD của giấy vay tiền ngày 25/3/2013 thành tiền Việt nam đồng tương đương với số tiền là 955.000.000 đồng. Số tiền 955.000.000 đồng này sẽ chỉ viết vào giấy vay tiền ngày 25/8/2014 là 800.000.000 đồng, số tiền còn lại là 155.000.000 đồng sẽ không đưa vào biên bản mà vợ chồng ông S bà M và ông Tr thỏa thuận miệng với nhau là ông Tr sẽ trả trong ba ngày sau kể từ ngày 25/8/2014 nhưng thực tế cho đến nay ông Tr vẫn chưa trả số tiền 155.000.000 đồng như trên (số tiền 155.000.000 đồng mà hiện nay ông S đang khởi kiện chỉ do các bên thỏa thuận miệng với nhau chứ không có giấy tờ chứng cứ gì để chứng minh).Riêng số tiền 800.000.000 đồng tại giấy vay tiền lập ngày 25/8/2014 cho đến nay ông Tr đã thanh toán dứt điểm cả gốc và lãi nên không đề cập đến và cũng không có kiện tụng gì.

Nay ông S khởi kiện đòi ông Trưởng trả số tiền 155.000.000 đồng, ông Tr hứa sẽ trả trong ba ngày sau nhưng đến nay không trả và số tiền lãi chậm thanh toán của số tiền trên kể từ ngày 25/8/2014 tạm tính đến ngày 25/8/2020 là 251.000.000 đồng. Tổng cộng là 406.000.000 đồng.

Đối với bị đơn ông Cao X T: Quá trình giải quyết vụ án bị đơn không đến Tòa án nên không ghi được lời khai và không hòa giải được.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T M trình bày thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn M S và có văn bản ủy quyền cho ông S ngày 13/10/2020.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 18/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã Xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn M S đối với ông Cao X T về việc đòi tiền cho vay.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo, quyền thi hành án của các đương sự.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 27/10/2021, ông Nguyễn M S làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên hôm nay:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Tiến T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông S là Luật sư Vũ Kim H vắng mặt có gửi luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn; Luật sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn M S buộc ông Cao X T phải trả cho ông S số tiền nợ gốc 155.000.000 đồng và tiền lãi chậm thanh trả từ ngày 25/8/2014 đến ngày 16/02/2022.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Tiến T thống nhất với ý kiến trình bày của Luật sư H không trình bày bổ sung gì thêm.

Bị đơn ông Cao X T vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên toà phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng, đầy đủ các bước tố tụng theo quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án.

Các đương sự chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí đầy đủ nên được coi là hợp lệ về hình thức.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Nhận thấy:

1. Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và các đương sự, đã ghi lời khai nguyên đơn, đã xác minh nơi ở của bị đơn, đã thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, đã niêm yết các văn bản tố tụng đúng trình tự. Tuy nhiên đã nhiều lần Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho ông Tr đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt nên không ghi được lời khai và không hòa giải được. Xác minh tại Công an phường Hàng Bài thì được biết ông Tr có quốc tịch Canada, không đăng ký hộ khẩu thường trú và cũng không thường xuyên sinh sống tại 31 phố Bà Tr.

Ngày 28/4/2021, Tòa án cấp sơ thẩm có Công văn số 281/2021/CV-TA gửi Cục Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an xác minh về nơi ở của ông Cao X T; Ngày 11/5/2021, Tòa án cấp sơ thẩm nhận được trả lời của Cục Quản lý xuất nhập cảnh tại Công văn số 10617/QLXNC-P5 ngày 06/5/2021 với nội dung “ông Cao X T, sinh ngày 12/4/1966, CMND số 011758566 khai hộ khẩu thường trú tại P104 B9 Văn Điển, Hà Nội”. Tiếp đó ngày 13/5/2021, Tòa án cấp sơ thẩm có công văn số 331/2021/CV-TA gửi Công an thị trấn Văn Điển và nhận được trả lời “ Ông Cao X T không đăng ký hộ khẩu thường trú và cũng không sinh sống trên địa bàn thị trấn Văn Điển, huyện Thanh Trì, Hà Nội”. Tiến hành xác minh qua người thân của ông Tr, anh trai ông Tr là ông Cao Xuân Bình cung cấp: “ông Cao X T không thường xuyên sinh sống tại 31 phố Bà Tr, nhà 31 Bà Tr hiện nay do ông Bình đang thực tế quản lý sử dụng, thỉnh thoảng ông Tr có về 31 Bà Tr ở vài ngày rồi lại bay vào thành phố Hồ Chí Minh. ông Tr có quốc tịch Canada nhưng đã về sinh sống tại Việt Nam từ cuối năm 2019 cho đến nay, còn cụ thể ông Tr sinh sống thường xuyên ở đâu thì gia đình không nắm được”. Tiếp đó Tòa án cấp sơ thẩm đã nhiều lần liên lạc theo số điện thoại 0986032868 do nguyên đơn cung cấp thì ông Tr vẫn nghe máy nhưng không cung cấp địa chỉ và cũng không đến Tòa án làm việc.

Như vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì đây được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ nên Tòa án cấp sơ thẩm đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn vắng mặt; Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm nguyên đơn là ông Nguyễn M S kháng cáo toàn bộ bản án, Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

2. Về hình thức: Nguyên đơn làm đơn kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo về hình thức là hợp lệ.

Tại phiên tòa ngày hôm nay các đương sự không xuất trình được thêm tài liệu, chứng cứ gì mới.

3. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn M S Trong đơn khởi kiện cùng như các lời trình bày của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại cấp sơ thẩm yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau: Do quen biết và tin tưởng nhau nên ngày 25/3/2013 vợ chồng ông Nguyễn M S và bà Nguyễn Thị T M đã cho ông Cao X T vay số tiền là 65.000 USD với điều kiện khi nào ông S bà M cần thì sẽ báo trước 15 ngày, ông Tr sẽ có trách nhiệm trả số tiền đã vay. Ngày 25/8/2014 ông Tr đã trả được số tiền là 20.000 USD. Số tiền còn nợ lại là 45.000 USD (tương đương với số tiền 955.000.000VNĐ). Cùng ngày 25/8/2014 giữa vợ chồng ông S bà M và ông Tr thỏa thuận lập giấy vay tiền mới đề ngày 25/8/2014 trong đó thỏa thuận quy đổi số tiền còn nợ là 45.000USD của giấy vay tiền ngày 25/3/2013 thành tiền Việt nam đồng tương đương với số tiền là 955.000.000 đồng. Theo nguyên đơn trình bày thì số tiền 955.000.000 đồng này chỉ viết vào giấy vay tiền ngày 25/8/2014 là 800.000.000 đồng, số tiền còn lại là 155.000.000 đồng không đưa vào biên bản mà hai vợ chồng ông S, bà M và ông Tr thỏa thuận miệng với nhau là ông Tr sẽ trả trong vòng ba ngày kể từ ngày 25/8/2014 nhưng thực tế cho đến nay ông Tr vẫn chưa trả số tiền 155.000.000 đồng như đã hứa. Riêng số tiền 800.000.000 đồng tại giấy vay tiền lập ngày 25/8/2014 cho đến nay ông S thừa nhận rằng ông Tr đã thanh toán dứt điểm cả gốc và lãi nên không đề cập đến và cũng không có kiện tụng gì.

Hội đồng xét xử xét thấy giấy vay tiền ngày 25/3/2013 được viết tay, có chữ ký của bên vay là ông Cao X T và người bảo lãnh là bà Lê Thị Liên và đối tượng giao dịch lại là đồng đô la Mỹ. Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 “Trên lãnh thổ Việt Nam mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Như vậy giao dịch vay tài sản giữa các đương sự trong vụ án này đã vi phạm điều cấm của pháp luật nên giao dịch dân sự này bị vô hiệu. Theo nguyên đơn trình bày sau khi bị đơn trả một phần nợ trong giấy vay tiền này số đồng đô la Mỹ còn lại đã được quy đồi thể hiện trong giấy vay tiền đề ngày 25/8/2014 số tiền vay là 800.000.000 đồng và thỏa thuận miệng số tiền còn lại là 155.000.000 đồng như vậy hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu trên đã được các đương sự tự giải quyết.

Đối với Giấy vay tiền đề ngày 25/8/2014, Hội đồng xét xử xét thấy giao dịch vay tài sản giữa các đương sự trong vụ án này được lập trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện có chữ ký của bên vay là ông Cao X T, hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật. Nội dung giấy vay này thể hiện các bên thỏa thuận số tiền vay số tiền là 800.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm cũng như tại phiên tòa sơ thẩm về số tiền vay này ông S thừa nhận rằng ông Tr đã trả đầy đủ cả gốc và lãi nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Đối với số tiền 155.000.000 đồng mà ông S yêu cầu Tòa án giải quyết tại đơn khởi kiện ngày 02/8/2018 và trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thụ lý giải quyết vụ án ông Nguyên M S đều trình bày do các bên thỏa thuận miệng với nhau, ông S không xuất được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình; bị đơn là ông Cao X T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án tại hai cấp xét xử không có lời trình bày. Hội đồng xét xử xét thấy đây là thỏa thuận miệng giữa các đương sự với nhau và không có mối liên hệ nào giữa thỏa thuận này đối với hai giấy vay tiền ngày 25/3/2013 và ngày 25/8/2014 nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn M S.

Về án phí:

Án phí sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Nguyễn M S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 26.200.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì những trường hợp được miễn nộp tiền án phí bao gồm:

“Điều 12. Miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án 1. Những trường hợp sau đây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:

đ)“... người cao tuổi...” .

Theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi thì người cao tuổi được xác định như sau: “Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.

Ông Nguyễn M S sinh năm: 1958; như vậy, ông S đủ điều kiện được hưởng chế độ của người cao tuổi. Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án sơ thẩm miễn án phí sơ thẩm cho ông Nguyễn M S, hoàn trả cho ông S số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Án phí phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên ông Nguyễn M S không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Như đã phân tích ở trên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn M S là có căn cứ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn xem xét sửa án sơ thẩm về vệc miễn án phí sơ thẩm cho ông Nguyễn M S.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 2 Điều 308, Điều 147, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Điều 471, Điều 473; Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005;

- Điều 2 Luật người cao tuổi;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 24/2021/DS-ST ngày 18/10/2021 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm và quyết định cụ thể như sau:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn M S đối với ông Cao X T về việc đòi tiền cho vay số tiền 155.000.000 đồng.

2. Về án phí:

2.1. Án phí sơ thẩm:

Ông Nguyễn M S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông S số tiền số tiền tạm ứng án phí ông S đã nộp là: 3.875.000 đồng theo biên lai thu tiền số: AA/2016/0017646 ngày 13/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Nguyễn M S không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tiền cho vay số 46/2022/DS-PT

Số hiệu:46/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về