Bản án về tranh chấp đòi tiền cho mượn số 169/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 169/2023/DS-PT NGÀY 29/12/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TIỀN CHO MƯỢN

Trong các ngày 28 tháng 12 năm 2023 và 29 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 145/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi tiền cho mượn”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 208/2023/QĐPT – DS ngày 27 tháng 11 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 240/2023/QĐ – PT ngày 11 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Ngun đơn: Ông Hồ Ngọc D, sinh năm 1974; Địa chỉ: 81 G, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Trần Thị Thu P, sinh năm: 1995, CCCD số 045195004X cấp ngày 17/6/2021; Địa chỉ: 267 T, phường A, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (theo Giấy uỷ quyền ngày 12/7/2023 và Quyết định số 52/23/QĐ-NĐD ngày 30/11/2023 v/v cử người đại diện tham gia giải quyết vụ việc theo yêu cầu của Công ty Luật TNHH Đỗ Thành Nh & Cộng sự). Có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Huy H, ông Đỗ Thành Nh – Luật sư Công ty Luật TNHH N; Địa chỉ: 267 T, phường A, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt

2. Bị đơn: Nguyễn Thị Thanh K, sinh năm 1991, CCCD số 04919100X0 cấp ngày 27/9/2021; Địa chỉ: B2.40 Lô 37 H, tổ 64, phường H, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ liên hệ: 99 N, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Các Ông (Bà) Lê Văn C, Trần Thị H, Phạm Thị Th, là Luật sư của Công ty Luật Hợp danh F thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Phiên tòa ngày 26/12/2023 Luật sư C và Luật sư Th có mặt, Luật sư H vắng mặt, phiên tòa ngày 27/12/2023 Luật sư Th có mặt, Luật sư C và Luật sư H vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Thanh P, sinh năm 1986, CCCD số 049186012X; Địa chỉ: 141 Nguyễn Sơn, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Người làm chứng: Nguyễn Thị Cẩm N, Sinh năm: 1991. Trú tại:

K466/10 T, phường H, quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng. Có mặt

5. Ngưi kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thanh K, là bị đơn; Bà Nguyễn Thị Thanh P, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:

Ông Hồ Ngọc D và bà Nguyễn Thị Thanh K quen biết nhau qua các mối quan hệ kinh doanh bất động sản. Sau một thời gian quen biết và làm ăn chung, ông D đã rất quý mến bà K. Tháng 06/2019, bà K có tâm sự với ông về việc ly hôn của bà và sẽ nhận ngôi nhà và đất sau khi ly hôn. Nhưng do hiện tại bà không có tiền để thối trả ½ giá trị nhà, đất cho chồng. Lúc này vì tin tưởng cũng như quý mến bà K, nên ông đồng ý cho bà K mượn để giải quyết việc gia đình, cũng như bà có được ngôi nhà tâm huyết để có chỗ ở ổn định, nên ông đã chuyển khoản cho bà K 02 lần tiền với tổng số tiền là 3.200.000.000 đồng. Cụ thể:

- Lần 1: chuyển 1.000.000.000 đồng qua Ngân hàng Á Châu vào ngày 01/7/2019.

- Lần 2: chuyển số tiền 1.200.000.000 đồng qua Ngân hàng Kỹ thương và số tiền 1.000.000.000 đồng qua Ngân hàng Á Châu, hai lần chuyển trong cùng ngày 31/7/2019.

Ngày 17/3/2020 bà K có chuyển lại cho ông số tiền 200.000.000 đồng và hứa sẽ trả lại cho ông trong vài tháng tới. Vì tin tưởng và có bằng chứng chuyển khoản nên ông không yêu cầu bà K viết Giấy mượn tiền.

Tháng 05/2022 vì điều kiện kinh doanh làm ăn thua lỗ nên ông có gọi điện và nhắn tin nhiều lần đề nghị bà K tìm cách giải quyết trả lại số tiền đã mượn, bà K cũng trả lời cho ông: Cho bà thêm thời gian bán nhà để trả nợ hoặc ông mua lại ngôi nhà của bà K và thối trả phần chênh lệch. Nhưng ông không đồng ý mua nhà của bà K và đã đồng ý cho bà K một thời gian để bán nhà trả nợ cho ông.

Tháng 11/2022 tình hình kinh doanh ngày càng khó khăn hơn trước, ông đã liên hệ với bà K nhiều lần đề nghị trả nợ cho ông trước Tết âm lịch hoặc chậm nhất là vào ngày 31/12/2022 nhưng bà K lại tiếp tục hứa hẹn sau Tết âm lịch sẽ giải quyết mà không nêu thời gian cụ thể.

Từ đầu năm 2023 đến nay thì ông không liên lạc được với bà K. Nay ông đề nghị Toà án buộc cô K phải trả lại cho ông số tiền đã mượn là 3.000.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi trên số tiền chậm trả.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn và đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn - bà Nguyễn Thị Thanh K trình bày:

Bà K không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông D. Bà K cho rằng do trước đây có mối quan hệ tình cảm yêu đương từ năm 2019 đến cuối năm 2022 nên trong quá trình yêu nhau, ông D có chuyển cho bà nhiều lần tiền để hỗ trợ cuộc sống, giúp đỡ bản thân bà, khi chuyển tiền thì ông D chỉ ghi là: Anh chuyển khoản. Và mặc nhiên bà nghĩ rằng đây là số tiền ông D cho bà, việc này ông D hoàn toàn tự nguyện. Sau khi bà và ông D chia tay, bà cảm thấy áy náy vì ông D đã giúp đỡ bà quá nhiều trong những năm qua nên bà đã chủ động chuyển trả lại cho ông D số tiền 3.100.000.000 đồng vào ngày 14/10/2022 và không nói lý do, chỉ ghi là: K chuyển khoản anh, cụ thể:

- Chuyển khoản 02 lần, một lần 150.000.000 đồng và một lần 400.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu đứng tên ông Hồ Ngọc D.

- Chuyển số tiền 2.X.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam đứng tên ông Hồ Ngọc D.

Sau khi ông D biết bà chuẩn bị cưới chồng (09/12/2022), thì ông D có gọi điện và nhắn tin đòi tiền. Do tâm lý lo sợ ảnh hưởng đến đám cưới nên bà chấp nhận nhắn tin lại theo kiểu đối phó cho qua chuyện chứ không tuyệt tình vì sợ ông D sẽ đến phá đám cưới. Sau khi đám cưới xong thì ông D có nhắn tin và gọi điện đòi tiền nhưng bà không nghe và chấm dứt liên lạc hoàn toàn với ông D. Nay ông D khởi kiện đòi tiền bà thì bà không đồng ý.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Thống nhất với lời trình bày của bị đơn và đề nghị HĐXX xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Theo đơn trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- bà Nguyễn Thị Thanh P như sau:

Bà P là chị gái của bà Nguyễn Thị Thanh K. Vừa qua, bà P và bà Nguyễn Thị Thanh K có lập hợp đồng tặng cho tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 (Sau đây gọi là “Nhà đất số 54”) nhưng bà P nhận được thông báo hiện tạm dừng việc đăng ký biến động vì Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đang áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản với nhà đất nêu trên. Bà P không đồng ý với quyết định phong tỏa trên vì đây là tài sản của bà P chứ không phải của bà Thanh K, cụ thể:

Năm 2019, bà P có nhận chuyển nhượng nhà đất số 54 từ bà Thanh K và chồng cũ là ông Nguyễn Tuấn Duy với giá chuyển nhượng 2 tỷ đồng, được biết, bà K và ông Duy bán nhà đất để chia tài sản khi ly hôn. Bà P đã thực hiện công chứng hợp đồng chuyển nhượng ngày 08/8/2019 tại Văn phòng công chứng Trần Thị Thanh Bòng với số công chứng 5207 quyển số 105 TP/CC- SCC/HĐGD và đã hoàn tất tất cả các thủ tục sang tên đổi chủ với tài sản này. Trên cơ sở đó, bà P là chủ sở hữu hợp pháp của nhà đất trên.

Sau đó, bên gia đình chồng cũ yêu cầu bà K chuyển ra khỏi hộ khẩu của gia đình, trong tình thế đó, bà K không có nơi ở cố định, không có nhà ở tại thành phố Đà Nẵng nên việc chuyển hộ khẩu khỏi nhà chồng cũ khiến bà mất phương hướng, việc sinh sống, làm việc của bà K cùng việc học tập của con gái gặp nhiều bất lợi. Bà P là chị gái rất thương cảm với hoàn cảnh của em mình, nhà đất số 54 mà năm 2019 nhận chuyển nhượng từ bà K lại để trống, nên bà P đã thỏa thận cho em gái đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất số 54, để bà K có nơi ở ổn định hợp pháp có thể đăng ký hộ khẩu thường trú tại Đà Nẵng, mặt khác có thể giúp bà P quản lý nhà đất nêu trên. Bà P và bà K có lập văn bản thỏa thuận về việc đứng tên hộ này và tiến hành công chứng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 23/4/2021 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Thanh số công chứng 661, quyển số 01TP/CC- SCC/HĐGD, từ đó, bà K đi đăng ký biến động và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021. Sau đó, bà K đã đi làm hộ khẩu mới và được cấp Sổ hộ khẩu số 150323376 ngày 19/5/2021 tại phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng.

Do đó, việc bà P tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên cho bà K chỉ là hình thức đứng tên hộ, tạo điều kiện hỗ trợ em gái mình có cơ sở để có thể xin đăng ký thường trú tại Đà Nẵng thuận tiện cho việc làm ăn của bà K và cho con gái học hành ổn định chứ thực chất bà P không tặng cho quyền sở hữu tài sản trên.

Thời điểm hiện nay, em gái bà P bà K đã có chồng mới, có nơi nương tựa, bà P muốn lấy lại nhà đất trên và bà K cũng đồng ý với việc đó nên ngày 14/8/2023, bà P và bà K đã lập hợp đồng tặng cho tài sản được công chứng tại Văn phòng công chứng Thái Thu Hà, số công chứng 956, quyển số 01/2023-TP/CC-SCC/HĐGD để chuyển tài sản nhà đất số 54 lại cho bà P và bà P cũng đã nộp hồ sơ đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh quận Ngũ Hành Sơn đã được tiếp nhận ngày 15/8/2023.

Tuy nhiên, việc Toà án áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản nhà đất trên để đảm bảo việc thi hành án của bà Nguyễn Thị Thanh K với ông Hồ Ngọc D đã kéo theo việc tạm đình chỉ đăng ký biến động đất đai đối với tài sản trên của bà P, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà P mặc dù bà P không liên quan gì đến vụ án này.

Bà P đề nghị: Hủy bỏ Quyết định số 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng và hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bằng hình thức “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ liên quan” áp dụng với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 hiện nay em gái bà - Nguyễn Thị Thanh K đang đứng tên giùm cho bà - Nguyễn Thị Thanh P.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 116, 119, 280, 463, 466, 469 BLDS chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn- ông Hồ Ngọc D đối với bị đơn- bà Nguyễn Thị Thanh K về việc “Tranh chấp đòi tiền mượn”. Buộc bà Nguyễn Thị Thanh K có trách nhiệm trả cho ông Hồ Ngọc D số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

* Với nội dung vụ án như trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng quyết định:

- Căn cứ khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự - Căn cứ Điều 116, 119, 280, 463, 466, 469 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Ngọc D đối với bà Nguyễn Thị Thanh K về việc “Tranh chấp đòi tiền mượn”.

1. Xử: Buộc bà Nguyễn Thị Thanh K có trách nhiệm trả cho ông Hồ Ngọc D số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số 02/2023/QĐ- BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, Khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 đứng tên bà Nguyễn Thị Thanh K.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí, thi hành án dân sự và quyền kháng cáo của đương sự.

* Ngày 21 tháng 9 năm 2023, bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K có Đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Ngọc D.

* Ngày 26/9/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P có Đơn kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm đối với phần quyết định: Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số 02/2023/QĐ- BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, Khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 đứng tên bà Nguyễn Thị Thanh K.

Ngày 07 tháng 12 năm 2023 Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nhận được Văn bản trình bày ghi ngày 05/12/2023 của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K. Theo đơn bà K trình bày:

Các căn cứ pháp lý chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Ngọc D là không có cơ sở.

- Giữa ông D và bà K không có bất cứ thỏa thuận nào về việc vay mượn tài sản. Số tiền ông D chuyển cho bà K vào ngày 01/7/2019 (01 tỉ đồng) và ngày 31/7/2019 (2,2 tỉ đồng) không thể hiện nội dung mục đích chuyển cho bà K mượn tiền, trước và sau khi chuyển tiền cũng không có tài liệu chứng cứ về việc bà K có thừa nhận khoản tiền 3,2 tỉ đồng là tiền mượn và bà K không có bất cứ xác nhận nợ nào với ông D.

- Số tiền 3,2 tỉ đồng nêu trên là tiền ông D tặng cho bà kiều trong thời gian hai người yêu nhau. Kể từ ngày bà K nhận được số tiền 3,2 tỉ thì số tiền này đã thuộc sở hữu hợp pháp của bà K.

2. Không có việc bà K mượn 3,2 tỉ đồng để thối lui nhà cho chồng cũ. Theo Hợp đồng chuyển nhượng ngày 08/8/2019 tại VPCC Trần Thị Thanh Bòng số công chứng 5207 là chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thanh P, bà P đã được đăng ký biến động trong giấy chứng nhận.

3. Về số tiền 3,1 tỉ đồng bà K chuyển cho ông D ngày 14/10/2022 là quà tặng mà bà tặng cho lại ông D, trả bớt một phần nợ ân tình. Ông D cho rằng bà K giúp ông bán lô đất B2.58 (Lô 7) Nam Hòa Xuân thuộc sở hữu của ông được 3,1 tỉ đồng là không đúng. Số tiền 3,4 tỉ đồng ông D chuyển cho bà K ngày 08/3/2022 qua Ngân hàng ACB là quà tặng ngày Phụ Nữ Việt Nam mà ông D dành cho bà, không liên quan đến việc chuyển tiền nhờ mua đất giùm như ông D trình bày.

4. Tòa án sơ thẩm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” quy định tại Điều 126 Bộ luật dân sự đối với nhà đất thửa số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ Lô 37-B2.40 Khu B2-40 Khu đô thị biệt thự thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn của bà K là không đúng quy định của pháp luật.

Do đó bà K đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận kháng cáo của bà sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo hướng:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Ngọc D về việc buộc bà K phải trả số tiền 3 tỉ đồng.

2. Hủy bỏ Quyết định số 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” quy định tại Điều 126 Bộ luật dân sự đối với nhà đất tại thửa số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ Lô 37-B2.40 Khu B2-40 Khu đô thị biệt thự thự sinh thái, Công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K xin xét xử vắng mặt, tại Đơn xin xét xử vắng mặt ghi ngày 25/12/2023 bà K thống nhất với quan điểm bảo vệ của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà tại phiên tòa phúc thẩm.

Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn bà K trình tại phiên tòa bày: đề nghị HĐXX chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn theo Đơn kháng cáo ngày 21 tháng 9 năm 2023 và Văn bản trình bày của bị đơn ngày 07 tháng 12 năm 2023, theo đó, đề nghị HĐXX phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn. Sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Ngọc D; Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” quy định tại Điều 126 Bộ luật dân sự đối với nhà đất nhà đất thửa số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ Lô 37-B2.40 Khu B2-40 Khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P xin xét xử vắng mặt, tại Đơn xin xét xử vắng mặt ghi ngày 25/12/2023 bà P đề nghị HĐXX xem xét nội dung kháng cáo của bà theo Đơn kháng cáo ngày 26/9/2023.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Trần Thị Thu P, Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa trình bày: Nguyên đơn không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn, trình bày của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P; Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh K cũng như trình bày của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn; không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.

Về nội dung vụ án: đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308 BLTTDS, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K, kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 44/2023/DS-ST ngày 13/9/2023 của TAND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P là người có kháng cáo bản án sơ thẩm đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự, HĐXX tiếp tục tiến hành phiên tòa, xét xử vắng mặt đối với bà Nguyễn Thị Thanh K và bà Nguyễn Thị Thanh P.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K.

[2.1] Về kháng cáo đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Ngọc D:

[2.1.1] Quá trình giải quyết vụ án, tại Đơn kháng cáo, Văn bản trình bày nội dung kháng cáo bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà K xác định số tiền 3.200.000.000 đồng ông D chuyển cho bà K (gồm: 1.000.000.000 đồng chuyển qua Ngân hàng Á Châu vào ngày 01/7/2019; số tiền 1.200.000.000 đồng chuyển qua Ngân hàng Kỹ thương và số tiền 1.000.000.000 đồng qua Ngân hàng Á Châu, trong cùng ngày 31/7/2019), là tiền ông D tự nguyện cho bà để hỗ trợ cuộc sống khi cả hai đang yêu nhau, không phải tiền ông D cho bà mượn. Giữa hai bên không có bất cứ thỏa thuận nào về việc vay mượn tiền, bà K cũng không có bất cứ xác nhận nợ nào với ông D. Ngoài số tiền này ra thì ông D còn cho bà nhiều khoản tiền khác nữa. Sau khi chia tay do cảm thấy áy náy vì ông D đã giúp đỡ bà quá nhiều trong những năm qua nên bà K đã chủ động chuyển trả lại cho ông D số tiền 3.100.000.000 đồng vào ngày 14/10/2022.

[2.1.2] Ông Hồ Ngọc D và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông D cũng xác nhận, trong thời gian yêu nhau ông D đã tặng cho bà K nhiều khoản tiền khác như bà K trình bày, những khoản tiền ông D đã tặng cho thì là của bà K. Riêng khoản tiền 3.200.000.000 đồng nêu trên là khoản tiền bà K mượn để thối trả cho chồng cũ khi giải quyết chia tài sản chung sau ly hôn giữa bà K và chồng cũ, do đó phải có nghĩa vụ trả lại cho ông.

[2.1.3] Ông Hồ Ngọc D và bà Nguyễn Thị Thanh K đều xác nhận, số điện thoại 0935237777 là của ông D và số điện thoại 0906694444 là của bà K sử dụng từ trước đến nay. Theo tài liệu là Vi bằng số: 291/2023/VB-TPL-TT ngày 27/7/2023 của Văn phòng Thừa phát lại Trọng Tín ghi nhận những nội dung tin nhắn qua lại giữa bà K và ông D qua các số điện thoại này thì thấy: Ngày 17/3/2020, bà K chuyển trả cho ông D số tiền 200.000.000đ và nhắn tin cho ông D xác nhận “đã chuyển trả 200.000.000đ, số còn lại vài tháng nữa bà K chuyển trả hết cho ông D. Bà K đang bán nhà, bán xong trả đủ cho ông D” (BL 120). Tiếp đến ngày 28/6/2022, bà K nhắn cho ông D nội dung khi nào bán được nhà sẽ gởi cho ông D, hoặc ông D lấy nhà và thối lui tiền lại cho bà K (BL 111). Nếu không đủ tin tưởng cần thì bà K viết giấy nợ cho ông D (BL 108). Ngày 18/11/2022 và ngày 19/11/2022 (BL 98 - 102) trả lời tin nhắn của ông D về việc bà K mượn tiền để giữ lại cái nhà tâm huyết, mượn để trả cho ba Thư (con bà K) để giữ lại cái nhà yêu thích. Cái gì cho là ông D cho, cái gì bà K mượn thì phải trả lại trước Tết năm 2022, thì bà K nhắn lại mong ông D đừng làm khó bà như vậy, đến Tết thì chắc chắn không được. Bà K chưa thể chứ không phải không thể…Nội dung các tin nhắn giữa bà K và ông D có cơ sở xác định bà K có nợ tiền ông D, đã chuyển trả được 200 triệu còn lại bà K hứa trong vài tháng chờ bán nhà xong sẽ trả đủ hoặc ông D lấy nhà thối lui tiền lại cho bà. Dù các tin nhắn giữa hai bên không nói rõ đến số tiền còn nợ là khoản nợ nào, số tiền là bao nhiêu. Tuy nhiên, việc chuyển tiền, số tiền là phù hợp với thời gian, số tiền chuyển nhượng ngôi nhà bà K và chồng cũ đứng tên. Ông D có nhắc bà K về việc mượn tiền ông D để trả cho ba bé Thư (là con bà K và ông chồng cũ), để giữ lại cái nhà yêu thích, bà K cũng không phản đối mà chỉ cho rằng đến Tết năm 2022 chắc chưa trả được. Đối với những tin nhắn này tại các bản trình bày bà K cho rằng do tâm lý lo sợ ảnh hưởng đến đám cưới nên bà chấp nhận nhắn tin lại theo kiểu đối phó cho qua chuyện chứ không tuyệt tình vì sợ ông D sẽ đến phá đám cưới là không có cơ sở, bởi lẽ toàn bộ các tin nhắn giữa ông D và bà K được ghi nhận tại Vi bằng số: 291/2023/VB-TPL-TT ngày 27/7/2023 của Văn phòng Thừa phát lại Trọng Tín do ông D cung cấp và Vi bằng số: 154/2023/VB-TPLĐN ngày 09/11/2023 của Văn phòng Thừa phát lại Đà Nẵng do bà K cung cấp chỉ liên quan đến tình cảm, những gì ông D cho thì của bà K, bà kiều mượn thì phải trách nhiệm trả nợ của bà K mà không có nội dung nào liên quan đến việc ông D có ý định sẽ quậy phá đám cưới của bà K.

[2.1.4] Về các khoản tiền ông Hồ Ngọc D cho bà Nguyễn Thị Thanh K: Ngày 20/5/2022 ông D nhắn tin cho bà K nội dung: …Tiền em lấy đưa cho Ba bé, khi nào có thì stk đo em tự chuyển, anh chưa cần. Tiền mượn mua nhà Tân An, cái này anh cho em để sử dụng trong cuộc sống. Cái gì anh cho tặng em thì là của em, cái gì em mượn thì anh nhắc lại…. Bà K trả lời: …đã hiểu và cảm ơn tin nhắn này của ông D, rất rõ ràng, sẽ là động lực cho bà K tiếp tục sống tốt… (BL 115 - 119). Tin nhắn trên thể hiện tiền ông D tặng cho bà K là các khoản tiền khác như ông D trình bày, không có cơ sở xác định khoản tiền 3.200.000.000 đồng trên là khoản tiền ông D tặng cho như bà K khai nhận. Quá trình giải quyết vụ án bà K cũng không chứng minh được số tiền nợ còn lại sau khi trả 200.000.000 đồng mà bà hứa trả đủ cho ông D trong vài tháng, sau khi bán nhà sẽ trả là khoản tiền khác không phải là khoản tiền đã nhận từ ông D 3.200.000.000 đồng trên. Do đó, nội dung trình bày của ông D và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông D là có cơ sở.

[2.1.5] Về khoản tiền 3.100.000.000 đồng bà Nguyễn Thị Thanh K chuyển khoản cho ông Hồ Ngọc D vào ngày 14/10/2022. Ông D, bà K đều xác nhận đây là khoản tiền chuyển nhượng Lô đất B2.58 (Lô 7) Nam Hòa Xuân. Qua các tin nhắn giữa bà K và ông D (BL 86 - 94), trình bày của người làm chứng là bà Nguyễn Thị Cẩm N, Hợp đồng đặt cọc đối với Lô đất B2.58 (Lô 7) ngày 24/9/2022, tài liệu về việc chuyển tiền đặt cọc ngày 24/9/2022, chuyển tiền chuyển nhượng vào ngày 24/10/2022 có cơ sở xác định việc bà K đặt cọc 02 lô đất 350 triệu đồng trong đó có Lô B2.58 (Lô 7), đến ngày 09/3/2022 phải trả tiền để công chứng nhận chuyển nhượng nhưng không đủ tiền nên ông D đã chuyển cho bà 3.400.000.000 đồng vào ngày 08/3/2022 để nhận chuyển nhượng lô đất B2.58 (Lô 7) để bà K không phải mất tiền cọc. Bà K đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Lô B2.58 (Lô 7) cho ông D. Sau đó, ông D nhờ bà Nguyễn Thị Cẩm N là người môi giới bán lại Lô B2.58 (Lô 7) với giá 3.300.000.000 đồng. Ông D đã nhận cọc 200 triệu vào ngày 24/9/2022 và khi ra công chứng vào ngày 14/10/2022 người mua đưa đủ 3.100.000.000 đồng còn lại. Ông D do có việc bận nên nhờ bà N nhận tiền giúp, nhưng do bà N đi xe máy không dám nhận nên ông D nhờ bà K nhận thay. Sau khi nhận được số tiền 3.100.000.000 đồng bà K đã chuyển ngay cho ông D trong ngày 14/10/2022 như nêu trên. Do đó, không có cơ sở xác định chấp nhận nội dung trình bày của bà K cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà K cho rằng Lô B2.58 (Lô 7) là của bà K và khoản tiền 3.100.000.000đ bà K nhận và chuyển khoản cho ông D vào ngày 24/9/2022 là quà tặng mà bà K tặng cho lại ông D, trả bớt một phần nợ ân tình.

[2.1.6] Với những nội dung đã phân tích, nhận định trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Ngọc D là có căn cứ. Do đó, Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D, buộc bà Nguyễn Thị Thanh K phải trả lại cho ông D số tiền còn nợ là 3.000.000.000 đồng là có cơ sở.

[2.2] Đối với ý kiến của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh P đề nghị hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, Khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 đứng tên bà Nguyễn Thị Thanh K (nhà đất tại Thửa đất số 54).

Như đã nhận định trên, bà Nguyễn Thị Thanh K có trách nhiệm trả cho ông Hồ Ngọc D số tiền 3.000.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, sau 02 lần Tòa án tổ chức phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thì vào ngày 14/8/2023 bà K ký hợp đồng tặng cho nhà đất tại Thửa đất số 54 này cho chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh P theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng Công chứng Thái Thu Hà, số công chứng 000956. Cho rằng bà K có ý định tẩu tán tài sản trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, ông D đã có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bà P chưa được cơ quan đăng ký đất đai xác nhận đăng ký tên vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với nhà đất tại Thửa đất số 54 theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về việc “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản của bà K là nhà đất tại Thửa đất số 54 để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bà K là phù hợp. Bà K và bà P cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh bà K còn có tài sản khác để thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông D. Do đó, Bản án sơ thẩm tuyên Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số:

02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54 là có cơ sở. Do đó, yêu cầu hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn không được HĐXX chấp nhận. [3] Từ những phân tích nhận định trên, HĐXX không chấp nhận ý kiến trình bày của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn, chấp nhận ý kiến trình bày của đại diện hợp pháp của nguyên đơn, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa; Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thanh K, bà Nguyễn Thị Thanh P; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí phúc thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà Nguyễn Thị Thanh K phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng do kháng cáo không được chấp nhận.

Riêng đối với bà Nguyễn Thị Thanh P có kháng cáo đề nghị hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn. Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 19 Nghị quyết số: 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, phần tuyên về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong bản án không bị kháng cáo, kháng nghị. Việc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Chương VIII của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên bà P không phải chịu án phí phúc thẩm, do đó trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà P.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn thị Thanh P.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Căn cứ:

- Khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 116, 119, 280, 463, 466, 469 Bộ luật dân sự;

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Ngọc D đối với bà Nguyễn Thị Thanh K về việc “Tranh chấp đòi tiền mượn”.

1. Xử: Buộc bà Nguyễn Thị Thanh K có trách nhiệm trả cho ông Hồ Ngọc D số tiền 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng).

2. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số 02/2023/QĐ-BPKCTT ngày 16/8/2023 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” đối với tài sản là nhà đất tại Thửa đất số 54, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Lô 37-B2.40 Khu B2-40, khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DA 286850 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/5/2021 đứng tên bà Nguyễn Thị Thanh K.

3. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí dân sự:

4.1. Án phí sơ thẩm: Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh K phải chịu 92.000.000 đồng (Chín mươi hai triệu đồng) Hoàn trả lại cho ông Hồ Ngọc D số tiền tạm ứng án phí 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng) theo biên lai thu số 0009702 ngày 21/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thanh K phải chịu 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001538 ngày 22/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, Tp Đà Nẵng.

Bà Nguyễn Thị Thanh P không phải chịu án phí phúc thẩm, được trả vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu số 0001559 ngày 28/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, Tp Đà Nẵng.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hánh án theo quy định tại Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tiền cho mượn số 169/2023/DS-PT

Số hiệu:169/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về