Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 97/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 97/2021/DS-PT NGÀY 04/05/2021 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh TÂY NINH xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2021/TLPT-DS ngày 23 tháng 02 năm 2021 về “Tranh chấp đòi tài sản”.

Do Bản án số : 03/2021/DS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐPT-DS ngày 05 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự :

1 . Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị R, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Số nhà 7, khu phố Long T, phường Long T1 B, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; có mặt.

2. Bị đơn: Chị Ngô Thị Châu L, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Số nhà 86, ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; có mặt.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

3.1. A Phan ThA N, sinh năm 1978.

3.2. Chị Nguyễn Thị Kiều O, sinh năm 1981.

Cùng nơi cư trú: Số nhà H2/7B, Tổ 16, ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

3.3. A Tạ ThA T4, sinh năm 1974; Nơi cư trú: Địa chỉ: Số nhà 7, khu phố Long T, phường Long T1 B, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; có mặt.

3.4 A Ngô Hoàng A, sinh năm 1988; Nơi cư trú: 3/8B ấp Long H, xã Trường T2, huyện Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; có mặt.

3.5 A Nguyễn Tần Lâm G, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Số 32, đường số 5, lộ 10, ấp Thạnh T5, xã Thạnh T, T1 Phố TÂY NINH, tỉnh TÂY NINH; có mặt.

4. Người kháng cáo: Chị Ngô Thị Châu L và A Tạ Thanh T4 là bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị R trình bày:

Bà khởi kiện yêu cầu chị Ngô Thị Châu L và A Tạ Thanh T4 trả lại cho bà căn nhà và phần đất có diện tích 33,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH. Nhà đất này thuộc quyền sử dụng của bà. Năm 2019 bà cho chị Ngô Thị Châu L là cháu con của chị gái bà về ở để sinh con, nay bà muốn lấy lại nhà đất nhưng chị L không đồng ý tR.

Phần đất này có nguồn gốc trước đây là của mẹ bà, khoảng năm 1991 mẹ bà có chia đất cho các con, sau đó mấy A, chị của bà mới chuyển nhượng phần đất được chia cho bà và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 468m2 từ năm 1991 cho đến năm 2017 bà sang nhượng một phần có diện tích 168m2, còn lại 331,5m2 bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất .

Căn nhà trên đất mà bà yêu cầu chị L, A T4 trả lại do bà xây dựng vào năm 2009, khi xây nhà xong bà cho chị gái tên Nguyễn Thị Rưng (là mẹ của L) và mẹ của bà sống đến mãn đời, sau khi mẹ của chị L mất, đến năm 2019 chị L, A T4 về sống tại đây và đến nay không chịu trả lại cho bà căn nhà và diện tích đất nêu trên do đó nay bà yêu cầu chị L, A T4 trả lại cho bà căn nhà và phần đất có diện tích 331,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH.

Trên phần đất còn có một căn nhà tường cấp 4 của em chồng bà là chị Nguyễn Thị Kiều O và A Phan Thanh N đang sinh sống. Trước đây bà và chị O, A N có thỏa thuận sang nhượng đất nhưng do chị O, A N chưa trả đủ tiền sang nhượng do đó chưa thực hiện thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị O, A N. Tuy nhiên giữa bà với chị O, A N không có tranh chấp, và không yêu cầu Tòa án giải quyết trọng vụ án này.

Bị đơn chị Ngô Thị Châu L trình bày:

Do căn nhà trên đất bà R khởi kiện yêu cầu đòi lại là nhà của mẹ chị là bà Nguyễn Thị Rưng và cha dượng chị tên Nguyễn Văn Hai (sống chung với mẹ chị không đăng ký kết hôn) xây dựng khoảng năm 2009, nay mẹ và cha dượng của chị đã chết nên chị về ở trên đất này để thờ cúng cha mẹ chị, chị không đồng ý trả lại căn nhà cho bà R.

Còn đối với phần đất mà bà R khởi kiện yêu cầu chị trả thì vào năm 2013 cha dượng chị có làm giấy tay mua lại của bà R với giá 70.000.000 đồng. Do đó, nay mẹ và cha dượng chị đã chết thì nhà đất này là của chị, do đó chị không đồng ý tR lại cho bà R.

Tại phiên tòa chị L đồng ý trả lại cho bà R phần đất diện tích 331,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH như yêu cầu khởi kiện của bà R. Còn căn nhà chị L cho rằng là do mẹ chị L bỏ tiền ra xây dựng do đó không đồng ý trả, chị đồng ý giao căn nhà lại cho bà R nhưng yêu cầu bà R pH thanh toán giá trị căn nhà theo giá mà Hội đồng định giá đã định và thanh toán giá trị mái che phía trước do chị và A T4 dựng sau khi A chị đến căn nhà này sống.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Kiều O và A Phan ThA N trình bày:

Khoảng năm 2010, A chị có nhận sang nhượng của bà R một phần đất có chiều ngang 4,5m, dài hết đất trong diện tích đất 331,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH mà hiện tại đang tranh chấp với chị L. Việc A chị nhận sang nhượng với bà R chưa thực hiện xong là do A chị chưa thA toán xong tiền sang nhượng đất, hiện tại phần đất mà A chị xây dựng nhà đang đứng tên của bà R, chưa sang tên cho A chị. Nay bà R khởi kiện yêu cầu chị L tR lại phần nhà và đất có diện tích 331,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH, A chị không có ý kiến và cũng không có yêu cầu Tòa án giải quyết gì trong vụ án này.

A Tạ ThA T4 trình bày: A đồng ý theo lời trình bày của chị Ngô Thị Châu L, không trình bày bổ sung.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15-01-2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH.

Áp dụng các Điều 166 của Bộ luật Dân sự, Điều 100 Luật Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị R đối với chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 về “Tranh chấp đòi lại tài sản”.

Buộc chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Thị R phần đất có diện tích 331,5m2 thuộc thửa số 614, tờ bản đồ số 25, tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH và trên đất có căn nhà cấp 4 diện tích 63,84m2 và phần nhà tạm phía sau diện tích 48,12m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 841127 do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 31-7-2017 cho bà Nguyễn Thị R đứng tên có tứ cận:

- Hướng Đông giáp lộ 10m dài 12,20m;

- Hướng T2 giáp lộ 4m dài 11,50m;

- Hướng Nam giáp thửa 199, dài 28m;

- Hướng B giáp thửa 613 dài 28m.

Buộc chị Ngô Thị Châu L, A Tạ ThA T4 có nghĩa vụ tháo dỡ 01 mái che bằng khung sắt tiền chế có diện tích 4,9m x 4,7m = 23,03m2 phía trước căn nhà cấp 4.

2. Chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 được quyền lưu cư trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Trong thời gian lưu cư chị L, A T4 không được thay đổi hiện trạng nhà để đảm bảo cho việc thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 29-01-2021, chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng buộc bà R thA toán giá trị căn nhà còn lại cho A chị là 150.000.000 đồng và chi phí di dời 20.000.000 đồng; tổng cộng 170.000.000 đồng.

Tại phiên Tòa chị L và A T4 thay đổi nội dung yêu cầu kháng cáo chỉ yêu cầu bà R tR cho chị L A T4 số tiền 150.000.000 đồng, không yêu cầu chịu tiền di dời.

Bà R trình bày: Không đồng ý theo yêu cầu của chị L, A T4.

Lời khai của A Ngô Hoàng A ngày 29-4-2021:

A là con ruột của bà Rưng và em ruột của chị L. Mẹ A bà Rưng có 02 người con là chị L và A. Năm 1998 cha mẹ A ly hôn nên mẹ A về sống chung với bà ngoại A là cụ Chuỗi ở ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH. Đến năm 2008 mẹ A chung sống với ông Hai đến năm 2009 mẹ A xây căn nhà tường cấp 4 sống cùng với ông Hai và bà ngoại A là cụ Chuỗi đến năm 2014 mẹ A chết. Ông Hai vẫn sống cùng với cụ Chuỗi tại căn nhà này đến năm 2017 thì ông Hai chết. Năm 2018, bà ngoại A chết. Năm 2019 chị L về nhà này sống thờ mẹ A nên chị L có quyền quyết định căn nhà. Nếu Tòa buộc bà R tR tiền giá trị căn nhà còn lại thì A đồng ý để chị L toàn quyền sở hữu sử dụng. A đồng ý tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm.

Lời khai của A Nguyễn Trần Lâm G ngày 27-4-2021: A là con ruột của ông Nguyễn Văn Hai. Ông Hai và mẹ A đã ly hôn. Năm 2008 ông Hai chung sống với bà Rưng nhưng vợ chồng, không đăng ký kết hôn, không có con chung. Năm 2009 A có nghe ông Hai nói xây nhà ở ấp Long H, xã Trường T2 ở khi ông Hai chết A mới đưa ông Hai về bên nội ở xã Thạnh T làm đám tang. Năm 2014, bà Rưng chết cha A ông Hai sống trên căn nhà này với cụ Chuỗi đến năm 2017 cha A mất tại căn nhà này. Đối với căn nhà A không có ý kiến gì. Việc bà R tranh chấp với chị L thì chị L quyết định. Nếu Tòa buộc bà R tR tiền giá trị căn nhà còn lại cho chị L thì chị L sở hữu sử dụng. Còn việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cha A là ông Hai với bà R A sẽ kiện ở vụ kiện khác.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TÂY NINH:

+ Về tố tụng: Hội đồng xét xử, thẩm phán và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng những quy định pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung:Từ những phân tích trên,Viện kiểm sát nhân dân đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Chấp nhận kháng cáo của chị Ngô Thị châu L và A Tạ Văn T4. Sửa Bản án sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15-01-2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH. Buộc bà R có nghĩa vụ thA toán cho chị L giá trị căn nhà cấp 4 và phần nhà tạm phía sau, mái che bằng khung sắt. Ghi nhận chị L yêu cầu bà Rả trả số tiền trị giá 150.00.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, và căn cứ kết quả trA tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm không đưa A Ngô Hoàng A là con ruột của bà Rưng, và A Nguyễn Trần Lâm G là con ruột của ông Hai vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót. Tại biên bản lấy lời khai ngày 29-4-2021 của A Ngô Hoàng A và biên bản lấy lời khai ngày 27-4-2021 của A Nguyễn Trần Lâm G và tại phiên tòa phúc thẩm, A A và A G đồng ý tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận và bổ sung vào bản án phúc thẩm cho đầy đủ.

A Phan ThA N và chị Nguyễn Thị Kiều O là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét kháng cáo của Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 thì thấy rằng:

Nguồn gốc phần đất diện tích 331,5m2 tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH là của cha, mẹ cụ Chuỗi cho cụ Chuỗi. Cụ Chuỗi là mẹ của bà R và bà Rưng và là bà ngoại của chị L chia cho các con trong đó có bà Rưng mẹ chị L. Khi cha mẹ cụ Chuỗi cho cụ Chuỗi là đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà R là người kê khai đăng ký mới đứng tên quyền sử dụng đất số 03144QSDĐ/D13 ngày 05-12-1994. Chị L và A T4 đồng ý tR đất này cho bà R .

Đối với căn nhà cấp 4 và nhà tạm xây trên đất chị L cho rằng do mẹ chị L bỏ tiền xây dựng năm 2009 nên không đồng ý trả; Qua xác minh bà Chót là người háng xóm của bà Rưng, cụ Thèn là dì ruột của bà Rưng và bà R là em ruột của cụ Chuỗi ở giáp rA đất nhà bà Rưng cung cấp: Căn nhà cấp 4 xây trên diện tích đất 331,5m2 là do bà Rưng mẹ ruột chị L trực tiếp xây dựng, bà Rưng là người mua vật liệu xây dựng của cửa hàng vật liệu xây dựng Hiệp Hòa, vì con chủ vật liệu xây dựng có đến nhà bà Rưng ở lấy tiền vật liệu không có bà Rưng ở nhà chị này có nhắn với bà kêu bà Rưng tR tiền vật liệu xây dựng. Bà R không sống chung với cụ Chuỗi và bà Rưng. Bà Rã lớn lên có chồng về xã Long T1 B sinh sống, ít khi về thăm cụ Chuỗi, lúc xây nhà không thấy bà R xuống nhà cụ Chuỗi (bút lục163,164 ).

A Tuấn và A Phong cung cấp các A là người trực tiếp xây nhà cho bà Rưng; bà Rưng là người thuê các A xây nhà và tR tiền công xây nhà cho các A và bà Rưng là người trực tiếp mua vật liệu xây dựng ở Hiệp Hòa. Ngoài ra bà Rưng còn mua vật liệu ở những người khác, chỗ nào rẽ thì mua, như gạch bà Rưng mua từ lò gạch. Từ khi xây nhà các A không thấy bà R xuống căn nhà này (bút lục 161,162). Mặt khác giấy tay mua bán đất giữa ông Nguyễn văn Hai và bà R, ông ThA vào ngày 20-6-2013, nội dung thể hiện ông Nguyễn Văn ThA và bà Nguyễn Thị R bán cho ông Nguyễn Văn Hai một miếng đất thổ cư tại số 86 đường 22 ấp Long H, xã Trường T2 Hòa T1, TÂY NINH không đề cập đến căn nhà trên đất (bút lục 150).Ông Nguyễn Văn Hai chung sống với bà Rưng năm 2008 không đăng ký kết hôn, không có con chung. Đến năm 2014 bà Rưng chết ông Hai tiếp tục sống trên căn nhà này đến năm 2017 ông Hai chết. Năm 2018 cụ Chuỗi chết. Năm 2019 chị L và A T4 về sống trên trên căn nhà này thờ bà Rưng cho đến nay. Bà R thừa nhận có bán đất cho ông Nguyễn Văn Hai đất, do ông Hai chưa thA toán đủ tiền nên các bên không thực hiện hợp đồng chuyển nhượng. Bà R yêu cầu chị L, A T4 tR lại đất chị L, A T4 đồng ý tR nên ghi nhận. Chị L đồng ý tR đất cho bà R cấp sơ thẩm phải không ghi nhận, mà buộc chị L, A T4 tR cho bà R diện tích đất 331,5m2 là chưa đúng với quy định của pháp luật.

Việc bà R cho rằng bà trực tiếp mua vật tư xây nhà của cửa hàng vật liệu Hiệp Hòa (nay là VLXD Đồng Tâm) và bà xây nhà có A Nguyễn Văn Tuấn là A ruột của bà biết; Tòa án cấp sơ thẩm xác minh đối với bà Nguyễn Thị Thu Hà nội dung bà Hà cung cấp bà có đến xem cửa hàng vật liệu xây dựng dùm con gái bà là chị Phạm Thị Trường An là chủ cửa hàng, bà Hà có nghe là bà R nói mua vật liệu xây nhà cho mẹ bà R ở (bút lục 94); xác minh ông Nguyễn Văn Tuấn cung cấp là theo ông biết người đứng ra mua vật liệu xây nhà, bà R và bà Rưng có bàn bạc vay tiền Ngân hàng để mua vật liệu xây dựng, sau này ai là người tR nợ cho Ngân hàng thì ông không biết (bút lục 93); Tại phiên tòa phúc thẩm bà R khai bà mua vật liệu xây dụng ở cửa hàng vật liệu Hiệp Hòa, trong khi tại cấp sơ thẩm thì bà R trình bày mua vật liệu xây dụng tại cửa hàng Đồng Tâm, lời trình bày của bà R mâu thuẫn, bà R không cung cấp chứng cứ chứng minh cho việc xây nhà. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào biên bản xác minh với nội dung nêu trên cho rằng căn nhà cấp 4 của bà R xây là thiếu căn cứ, chưa khách quan. Do đó, chị L và A T4 kháng cáo cho rằng căn nhà cấp 4 xây năm 2009 bà Rưng xây là có căn cứ. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của chị L, A T4. Buộc bà R tR cho chị L A T4 số tiền trị giá căn nhà cấp 4 có diện tích 63,84m2, giá trị sử dụng còn lại 123.721.920 đồng và một căn nhà tạm phía sau diện tích 48,12m2, giá trị còn lại 19.753.260 đồng và phần máy che diện tích 23,03 m2 có giá do hai bên thỏa thuận thống nhất 7.000.000 đồng trị giá 150.475.180 đồng (một trăm năm mươi triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn một trăm tám mươi đồng) nhưng tại phiên tòa chị L, A T4 yêu cầu bà R giao tR số tiền 150.000.000 đồng nên ghi nhận. Do đó, giao nhà, và máy che trên đất cho bà R sử dụng. Bà R có nghĩa vụ giao cho chị L, A T4 số tiền 150.000.000 đồng là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử. Chấp nhận kháng cáo của chị L và A T4. Sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH là phù hợp với pháp luật nên chấp nhận.

[4] Từ những phân tích trên xét thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15-01-2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH.

[5] Đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20-6-2013 giữa ông Nguyễn Văn ThA, bà Nguyễn Thị R với ông Nguyễn Văn Hai được tách ra giải quyết ở vụ kiện khác khi có đơn yêu cầu.

[6] Ghi nhận A Ngô Hoàng A, A Nguyễn Trần Lâm G đồng ý giao số tiền trị giá nhà còn lại cho chị L được quyền sở hữu, sử dụng.

phí.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm, nên cần tính lại án [8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 kháng cáo được chấp nhận nên chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 không pH chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.

[9] Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị, Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 166 của Bộ luật Dân sự, Điều 100 Luật Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4.

2. Sửa Bản án sơ thẩm số: 03/2021/DS-ST ngày 15 - 01 - 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH .

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị R đối với chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 về “Tranh chấp đòi lại tài sản”.

Ghi nhận chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 đồng ý trả lại cho bà Nguyễn Thị R phần đất có diện tích 331,5m2 thuộc thửa số 614, tờ bản đồ số 25, tọa lạc tại ấp Long H, xã Trường T2, thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CI 841127 do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 31-7-2017 cho bà Nguyễn Thị R đứng tên có tứ cận:

- Hướng Đông giáp lộ 10m dài 12,20m ;

- Hướng T2 giáp lộ 4m dài 11, 50m;

- Hướng Nam giáp thửa 199, dài 28m;

- Hướng B giáp thửa 613 dài 28m.

4. Bà Nguyễn Thị R được quyền sở hữu sử dụng căn nhà cấp 4 có diện tích 63,84m2, giá trị sử dụng còn lại 123.721.920 đồng và một căn nhà tạm phía sau diện tích 48,12m2, giá trị sử dụng còn lại 19.753.260 đồng và phần máy che diện tích 23,03 m2 có giá 7.000.000 đồng và 01 giếng khoang trên đất trị giá 150.475.180 đồng (một trăm năm mươi triệu bốn trăm bảy mươi lăm nghìn một trăm tám mươi đồng).

5. Buộc bà Nguyễn Thị R có nghĩa vụ thanh toán tiền xây dựng căn nhà cấp 4 và nhà tạm phía sau, máy che bằng khung sắt cho chị Ngô Thị Châu L số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng).

6. Đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 20-6-2013 giữa ông Nguyễn Văn ThA, bà Nguyễn Thị R với ông Nguyễn Văn H được tách ra giải quyết ở vụ kiện khác khi có đơn yêu cầu.

7. Ghi nhận A Ngô Hoàng A, A Nguyễn Trần lâm G đồng ý giao số tiền trị giá nhà còn lại cho chị L được quyền sở hữu, sử dụng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn pH thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

8. Chị Ngô Thị Châu L và A Tạ Thanh T4 được quyền lưu cư trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Trong thời gian lưu cư chị L, A T4 không được thay đổi hiện trạng căn nhà cấp 4 diện tích 63,84m2 gồm có phần nhà tạm phía sau diện tích 48,12m2 và máy che diện tích 23,03 m2 giếng khoang trên đất để đảm bảo cho việc thi hành án.

9. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị R tự nguyện chịu tiền chi phí đo đạc, định giá, trích lục hồ sơ là 1.882.000 đồng, ghi nhận bà R đã nộp và chi phí xong.

10. Về án phí:

10.1 Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị R phải chịu 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) đối với phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận; nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị R đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008681 ngày 05-5-2020 của Chi cục Thi hành án thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH; chị R còn pH nộp 7.200.000 đồng (bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

10.2 Án phí dân sự phúc thẩm:

Chị Ngô Thị Châu L và A Tạ ThA T4 kháng cáo được Tòa án chấp nhận nên không phải chịu án phí; hoàn trả số tiền tạm ứng án phí chị L, A T4 đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009620 ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hòa T1, tỉnh TÂY NINH.

11. Những quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị, Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

12.Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 97/2021/DS-PT

Số hiệu:97/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về