Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 29/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 29/KDTM-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Trong các ngày 05 tháng 7 và 11 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số: 28/2018/KTST ngày 10 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2023/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên T2 Địa chỉ: Trụ sở số D đường số A, tổ C, ấp T, xã X, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: ông Đỗ Minh T - Tổng Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tạ Anh D, sinh năm 1985 Cùng địa chỉ: ấp T, xã H, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.

(Văn bản ủy quyền số 02/UQ-CSĐN ngày 15/01/2018) (có mặt)

Bị đơn: Công ty Cổ phần B Địa chỉ: 8 đường T, Phường G, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Huỳnh Gia H - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Kim C, sinh năm 1979 Địa chỉ: số I đường Â, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền số 15/2023/GUQ ngày 21/3/2023) (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn - Công ty TNHH Một thành viên T2 có ông Tạ Anh D trình bày: Công ty TNHH MTV T2 và Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B ký kết hợp đồng mua bán mủ cao su số 18/3-HG ngày 12/3/1997, số lượng: 720 tấn (bảy trăm hai mươi tấn). Tổng giá trị hợp đồng mua bán mủ cao su là 9.132.000.000 đồng (Chín tỷ một trăm ba mươi hai triệu đồng).

Sau khi Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B nhận đủ số lượng mủ cao su với tổng giá trị nêu trên đã tiến hành thanh toán một phần giá trị hợp đồng cho Công ty TNHH MTV T2.

Tính đến thời điểm ngày 31/12/2001, tổng số tiền nợ của hợp đồng mua mủ cao su mà Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B đã thanh toán (bao gồm việc cấn trừ công nợ thông qua tài sản là xe ô tô) cho Công ty TNHH MTV T2 là 8.925.800.000 đồng (tám tý chín trăm hai mươi lăm triệu tám trăm ngàn đồng). Số tiền nợ gốc còn lại mà Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV T2 là 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng).

Từ năm 2002, Công ty TNHH MTV T2 liên tục tiến hành các thủ tục nhằm xác nhận và thu hồi số nợ gốc còn lại tuy nhiên phía Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B không tiếp tục tiến hành thanh toán số nợ gốc còn lại, với lý do đang tiến hành cổ phần hóa nên sẽ tiến hành thanh toán số nợ trên sau khi tiến hành cổ phần hóa xong đồng thời có hướng dẫn xử lý nợ của nhà nước.

Đến tháng 12/2006, khi đã tiến hành xong việc cổ phần hóa và chuyển đổi từ Công ty Bách Hóa Điện Máy Thành phố B sang Công ty Cổ phần B; phía công ty vẫn không tiến hành thanh toán số tiền nợ gốc còn là 206.200.000 đồng mặc dù Tổng Công ty T2 đã có nhiều văn bản yêu cầu thanh toán tiền nợ. Ngày 20/4/2007, Công ty Cổ phần B có văn bản số 59/BHĐM-KT xác nhận số nợ 206.200.000 đồng và giải thích chưa thanh toán số tiền nợ cho Tổng Công ty T2 do chờ hướng dẫn của nhà nước sau khi tiến hành cổ phần hóa. Đến ngày 10/4/2008, phía Công ty Cổ phần B tiếp tục có công văn số 30/BHĐMSG-CV với nội dung tương tự gửi về cho Tổng Công ty T2.

Từ năm 2009, Công ty TNHH MTV T2 đã thực hiện các biện pháp nhằm thu hồi nợ và xác nhận công nợ nhưng vẫn không được phía Công ty Cổ phần B xác nhận, thanh toán số nợ còn lại; gây khó khăn cho doanh nghiệp trong công tác thu hồi công nợ, thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Trong báo cáo tài chính hàng năm của Công ty Cổ phần B vẫn xác nhận số tiền nợ của Tổng Công ty T2 tại mục nợ phải trả tuy nhiên phía Công ty Cổ phần B không có thiện chí trong việc hoàn trả khoản tiền nợ mua mủ cao su.

Công ty TNHH MTV T2 cho rằng bị đơn đề nghị áp dụng thời hiệu đối với vụ án này là không phù hợp vì căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là thanh toán toàn bộ số tiền nợ mà Công ty Cổ phần B chưa trả, do tài sản mà nguyên đơn bán cho bên bị đơn không còn nên phải tính ra giá trị tài sản căn cứ theo các xác nhận công nợ giữa hai bên. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện về bản chất là yêu cầu trả lại tài sản. Căn cứ theo Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội, Khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố Tụng Dân sự năm 2011 thì tranh chấp về tài sản không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Đồng thời, căn cứ Khoản 2 Điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 thì “Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hoá để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty N trước khi cổ phần hoá và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật” nên Công ty Cổ phần B có trách nhiệm thanh toán toàn bộ khoản nợ mà Công ty B nợ Công ty TNHH Một thành viên T2 là 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng).

Bị đơn - Công ty Cổ phần B trình bày: Bị đơn cho rằng Công ty TNHH MTV T2 không có quyền khởi kiện yêu cầu Công ty B thanh toán khoản nợ 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng) vì căn cứ theo các hồ sơ, tài liệu kèm theo đơn khởi kiện thì khoản nợ nguyên đơn yêu cầu Công ty B thanh toán được phát sinh từ Hợp đồng mua bán hàng hóa số 18/3-BG ngày 12/3/1997 giữa Công ty T2 (Bên bán) và Công ty Bách Hóa Điện máy Thành phố B (Bên mua). Đồng thời các công văn mà Công ty Bách Hóa Điện máy Thành phố B xác định khoản nợ 206.200.000 đồng vào thời điểm gần nhất là ngày 20/02/2006, đều xác nhận nợ với chủ thể là Công ty T2. Tuy nhiên, chủ thể khởi kiện là Công ty TNHH MTV T2. Công ty TNHH MTV T2 được thành lập theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, mã số 3600259465 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đ cấp lần đầu vào ngày 29/5/2009, tức là sau thời điểm phát sinh khoản nợ. Đồng thời, các hồ sơ, tài liệu do nguyên đơn gửi kèm theo Đơn khởi kiện không chứng minh Công ty TNHH MTV T2 bao gồm quyền đòi các khoản nợ của Công ty T2.

Công ty đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu đối với vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Công ty B cho rằng khoản nợ phát sinh từ hợp đồng mua bán mủ cao su số 18/3-BG ngày 12/3/1997 giữa Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B. Căn cứ Quyết định số 2400/QĐ-UBND ngày 26/5/2006, Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B đã được cổ phần hóa thành pháp nhân mới là Công ty Cổ phần B. Khoản nợ đối với Công ty T2 được phát sinh trước thời điểm Công ty Cổ phần B được cổ phần hóa. Tuy nhiên đến ngày 15/01/2018, nguyên đơn mới tiến hành khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ. Căn cứ theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 157 và Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời điểm Nguyên đơn khởi kiện vào ngày 12/3/2018 đã hết thời hiệu khởi kiện.

Từ các nhận định trên và căn cứ theo quy định của pháp luật, Công ty cổ phần B không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Tòa án xem xét đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e, điểm g Khoản 1 Điều 217 Bộ Luật Dân sự 2015.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

- Nguyên đơn - Công ty TNHH Một thành viên T2 có ông Tạ Anh D đại diện trình bày: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng).

- Bị đơn - Công ty Cổ phần B có bà Nguyễn Kim C đại diện trình bày: Qua quá trình kiểm tra, rà soát lại thì bị đơn xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền như nguyên đơn yêu cầu. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án. Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án.

Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác nhận nợ đối với số tiền 206.200.000 đồng, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự:

Nguyên đơn - Công ty TNHH Một thành viên T2 khởi kiện yêu cầu bị đơn - Công ty Cổ phần B thanh toán số tiền 206.200.000 đồng là khoản nợ còn thiếu theo các văn bản xác nhận nợ của Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B. Do đó, quan hệ tranh chấp trong vụ án là Tranh chấp đòi tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do bị đơn có trụ sở tại Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân Quận 5 có thẩm quyền giải quyết vụ án nêu trên.

[2] Về tố tụng:

[2.1] Về xác định tư cách đương sự:

Bị đơn cho rằng Công ty TNHH MTV T2 không có quyền khởi kiện yêu cầu Công ty B thanh toán khoản nợ 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng).

Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ theo nội dung Quyết định số 1279/QĐ- BNN-ĐMDN ngày 04/5/2009 của Bộ N1 về việc thành lập Tổng công ty T2 (công ty mẹ) là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T2 thì Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên T2 kế thừa ngành nghề kinh doanh của Công ty T2, cũng như kế thừa quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của Công ty T2. Do đó, Công ty TNHH MTV T2 có quyền khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ còn thiếu theo các xác nhận nợ giữa Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B.

[2.2] Về yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của bị đơn:

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 206.200.000 đồng là khoản nợ phát sinh từ Hợp đồng mua bán mủ cao su số 18/3-BG ngày 12/3/1997 giữa Công ty T2 với Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B. Giữa Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B đã có các văn bản xác nhận nợ nhưng đến nay chưa thanh toán. Do đó, như đã phân tích ở trên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số nợ còn thiếu theo các văn bản xác nhận nợ thì quan hệ tranh chấp của vụ án là Tranh chấp đòi tài sản. Theo quy định tại điểm c, d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS thì “Từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Do đó, căn cứ quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu đòi lại tài sản. Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án:

Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B ký Hợp đồng mua bán mủ cao su số 18/3-BG ngày 12/3/1997, tổng giá trị mua bán mủ cao su là 9.132.000.000 đồng (Chín tỷ một trăm ba mươi hai triệu đồng). Tại Công văn số 845/CV-BG ngày 16/9/1999 và Biên bản đối chiếu công nợ đến ngày 31/12/1999 lập ngày 12/01/2000 Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B xác nhận còn nợ Công ty T2 số tiền 806.200.000 đồng. Đến ngày 03/3/2000 và ngày 16/3/2000, Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B cùng xác nhận vào các Biên bản làm việc về việc Công ty B cấn trừ nợ cho Công ty T2 bằng 01 xe ô tô trị giá 600.000.000 đồng. Sau các lần xác nhận nợ thì đến ngày 12/4/2004, Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B ký xác nhận vào Văn bản số 211/CSĐN.TC ngày 12/4/2004 với nội dung “Công ty B xác nhận nợ 206.200.000 đ (Hai trăm lẻ sáu triệu hai trăm ngàn đồng) đến ngày 31/12/2003 C1 còn nợ Cty Cao su Đ”, có chữ ký và đóng dấu xác nhận của ông Bùi Công D1 đại diện Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B. Đến ngày 10/4/2008, tại Công văn số 30/BHĐMSG-CV, Công ty Cổ phần B xác nhận có biết việc xác nhận nợ ngày 20/02/2006 của Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B và cho biết đang chờ sự chỉ đạo của các cấp chủ quản đối với các khoản nợ tồn đọng từ nhiều năm trước.

Hội đồng xét xử nhận thấy, Công ty T2 và Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B không tranh chấp với nhau về hợp đồng mua bán mủ cao su, hai bên đã lập các biên bản và các văn bản xác nhận đối chiếu công nợ trước thời điểm cổ phần hóa của cả hai công ty. Theo các tài liệu nguyên đơn cung cấp như đã liệt kê ở trên, có cơ sở xác định số tiền Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B còn nợ Công ty T2 tính từ thời điểm năm 2001 là 206.200.000 đồng, số nợ này đã được Công ty T2 (hiện nay là Công ty TNHH MTV T2) ghi nhận vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, theo Quyết định số 2400/QĐ-UBND ngày 26/5/2006 của Ủy ban nhân dân Thành phố H đã cổ phần hóa Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B thành pháp nhân mới là Công ty Cổ phần B. Căn cứ quy định tại Điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 18/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần thì “...Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hoá để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của công ty N trước khi cổ phần hoá và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật...”. Nên Công ty Cổ phần B phải có nghĩa vụ kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty Bách hóa Điện máy Thành phố B là phù hợp với quy định của pháp luật.

Nguyên đơn xác định bị đơn chưa thanh toán số tiền còn nợ cho nguyên đơn. Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác nhận qua kiểm tra, rà soát lại thì hiện nay bị đơn có nợ nguyên đơn số tiền như trên, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn - Công ty Cổ phần B phải thanh toán cho nguyên đơn - Công ty TNHH MTV T2 số tiền 206.200.000 đồng.

[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn - Công ty Cổ phần B phải thanh toán cho nguyên đơn - Công ty TNHH MTV T2 số tiền nợ gốc là 206.200.000 đồng.

[5] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định nêu trên nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn - Công ty Cổ phần B phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn. Nguyên đơn - Công ty TNHH MTV T2 không phải chịu án phí sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 21, 26, 35, 39, 184, 277 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 688, Điều 155 Bộ luật dân sự 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty TNHH MTV T2.

Buộc Công ty Cổ phần B phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV T2 số tiền nợ còn thiếu là 206.200.000 đồng (Hai trăm lẻ sau triệu hai trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

- Công ty Cổ phần B phải chịu án phí sơ thẩm là 10.310.000 đồng (Mười triệu ba trăm mười ngàn đồng).

- Công ty TNHH MTV T2 không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn lại cho Công ty TNHH MTV T2 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.155.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AG/2014/0005972 ngày 27/02/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. 

3. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

4. Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 29/KDTM-ST

Số hiệu:29/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:11/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về