Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 26/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH BẮC GIANG, TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 26/2023/DS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 206/2022/TLST-DS ngày lố tháng 12 năm 2022 về việc “Kiện đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2023/QĐXXST-DS ngày 10/4/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2023/QĐST-DS ngày 28/4/2023 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1959 Địa chỉ: Số nhà D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1966 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

+ Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1986(Vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/10/2022, quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - bà Nguyễn Thị M trình bày: Do có mối quan hệ quen biết, nên tháng 8/2021 ông Nguyễn Văn H có cho chị Nguyễn Thị H1 mượn nhà cấp 4, lợp tôn tại vị trí sân sau nhà dưới tầng 1 tại địa chỉ số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang để làm chỗ ở. Nguồn gốc nhà cho mượn là nhà ông H xây dựng trên nền đất thuê khoán của Công ty cổ phần T theo Hợp đồng giao khoán số 36/HĐ-GK ngày 30/12/2014. Theo thoả thuận tại hợp đồng, ông H được toàn quyền sử dụng diện tích đất tại vị trí sân sau dưới nhà tầng 1 tại địa chỉ số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang và xây dựng công trình phù hợp trên đất đề sử dụng cho người khác thuê, mượn lại trong thời hạn từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2042.

Việc ông H cho chị H1 mượn nhà chỉ trao đổi, thoả thuận bằng miệng, không lập thành văn bản. Thời hạn mượn nhà, các bên thoả thuận khi nào cần, ông H sẽ đòi lại nhà, chị H1 không phải trả bất kỳ khoản tiền nào cho ông H. Quá trình cho mượn nhà đến đầu năm 2022, giữa ông H, chị H1 xảy ra mâu thuẫn, ông H không cho chị H1 mượn nhà nữa và đã thông báo cho chị H1 biết để chị H1 trả lại nhà đã mượn. Sau đó, chị H1 đã mang hết đồ đạc trong nhà đi nhưng lại khóa cửa nhà, không trả lại diện tích nhà cho ông H và rời đi nơi khác sinh sống.

Đối với việc chị H1 xuất trình bản sao kê của Ngân hàng đã chuyển cho ông H 380.000.000 đồng với nội dung mua nhà. Theo ông H nói lại khoảng tháng 7/2021 chị H1 có bán xe ô tô và nhờ chuyển vào tài khoản của ông H sau đó chuyển lại cho chị H1 nên ngày 12/7/2021 chị H1 đã chuyển vào tài khoản của ông H 380.000.000 đồng với nội dung chuyển tiền mua nhà. Ngay sau đó ông H đã chuyển trả lại vào tài khoản của chị H1, cụ thể: ngày 16/7/2021 chuyển trả vào tài khoản của chị H1 số tiền 50.000.000 đồng, ngày 19/7/2021 chuyển trả vào tài khoản của chị H1 số tiền 55.000.000 đồng, ngày 02/8/2021 chuyển trả tài sản của chị H1 số tiền 275.000.000 đồng cùng với nội dung chuyền trả tiền mua nhà. Ông H khẳng định giữa ông H và chị H1 không có việc mua bán nhà nào cả.

Nay ông Nguyễn Văn H yêu cầu chị Nguyễn Thị H1 trả lại nhà cho ông căn nhà tại tầng A - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang cho ông.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Nguyễn Thị H1 trình bày: Tháng 5/2017, chị có thuê căn hộ trên tầng 4 của ông H tại địa chỉ: số D, đường X, phường T, thành phố B đề ở và sinh sống cùng em gái và con trai chị. Đầu năm 2020, ông H xây thêm một căn ở tầng 1 và tiện cho việc kinh doanh nên chị thuê lại và chuyển xuống đó ở đến đầu năm 2021 chị có đề nghị ông H xây thêm một phòng để xe bên cạnh để ở cho rộng, ông H nói bán cho chị diện tích là 80m2 giá 200.000.000 đồng, thời hạn là 20 năm từ ngày 22/4/2021 đến ngày 22/4/2041 bằng hình thức hợp đồng góp vốn và chị phải tự xây nhà. Do thời điểm đó bị dịch bệnh COVID 19 việc đi lại khó khăn nên ông H đứng lên nhận trông nom xây dựng và thuê thợ cũng như chủ động mua bán vật liệu xây dựng cho chị. Đầu tháng 4/2021 chị bắt đầu xây dựng ngôi nhà đó, trong thời gian ông H xây nhà cho chị, chị đã đưa tiền mặt có ghi giấy nhận tiền ông H ký nhận, để chi trả vật liệu và công thợ; có chuyển khoản cho ông H số tiền 380.000.000 đồng. Đến tháng 7/2021 xây xong ngôi nhà chị đến ở được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn giữa chị và ông H nên chị phải chuyển ra ngoài thuê trọ sinh sống. Việc ông khởi kiện chị đòi căn nhà trên là hoàn toàn không đúng.

Bà Nguyễn Thị M trình bày: Bà và ông H đăng ký kết hôn năm 1985, hiện nay vẫn là vợ chồng hợp pháp. Bà được biết ông H đang khởi kiện yêu cầu chị Nguyễn Thị H1 trả lại nhà tại tầng 1 - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Bà xác định nhà ông H cho chị H1 mượn là nhà ông H xây dựng trên nền đất thuê khoán của Công ty cổ phần T theo Hợp đồng giao khoán số 36/HĐ-GK ngày 30/12/2014 là tài sản riêng của ông H, không liên quan gì đến bà. Việc ông H giao dịch cho chị H1 mượn nhà là giao dịch riêng giữa hai người, mãi sau này khi xảy ra tranh chấp thì bà mới biết. Do vậy, bà không có quyền lợi, yêu cầu gì trong vụ án. Đề nghị Tòa án không đưa bà tham gia tố tụng trong vụ án.

* Tại Biên bản xác minh ngày 31/3/2023, Công ty Cổ phần T cung cấp: Công ty cổ phần T là chủ sử dụng quyền sử dụng đất tại khu sân sau nhà dưới tầng 1 diện tích 414,9 m2 tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, Công ty đã giao khoán cho ông Nguyễn Văn H diện tích đất theo hợp đồng số 36/HĐ-GK ngày 30/12/2014, thời hạn giao khoán từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2042, thời điểm giao khoán, trên đất không có tài sản, công trình gì.

Quá trình thực hiện hợp đồng, ông H có xây dựng một số công trình trên đất để sử dụng. Đối với nhà cấp 4 lợp tôn mà ông H đang khởi kiện đòi chị H1 thì Công ty không nắm rõ, chỉ biết ngôi nhà trên nằm trong diện tích đất mà công ty đã cho ông H thuê khoán.

Theo thoả thuận, ông H có quyền xây dựng công trình trên đất phù hợp để sử dụng hoặc cho người khác thuê mượn, giữa ông H, chị H1 có giao dịch gì với nhau hay không thì Công ty không biết được. Ngoài ra, công ty xác định không liên quan gì trong vụ án vì theo thoả thuận tại Hợp đồng, ông H được toàn quyền sử dụng cho thuê, mượn diện tích đất, công trình trên đất tại vị trí sân sau nhà tầng 1 trong thời hạn đã thoả thuận. Do vậy, đề nghị Tòa án không triệu tập Công ty tham gia tố tụng trong vụ án Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 31/3/2023, diện tích nhà đang yêu cầu giải quyết có vị trí, đặc điểm như sau:

+ Theo xác định của bà Nguyễn Thị M, vị trí nhà tranh chấp tại sân sau nhà tầng 1 của Công ty cổ phần T cho ông Nguyễn Văn H thuê khoán theo Hợp đồng giao, nhận khoán số 36/HĐ-GK ngày 30/12/2014 tại địa chỉ: Số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

+ Đặc điểm nhà:

- Nhà cấp 4, xây tường gạch, lợp mái tôn, kích thước mặt trước dài 9,85 m, kích thước chiều rộng bên phải 4,95 m - Mặt trước có 01 cửa chính ở chính giữa, 01 cửa sổ nhôm kính, 01 cửa ngách bằng tôn sắt.

- Nhà hiện đang khoá nên không tiến hành xem xét, thẩm định được tài sản, kết cấu bên trong nhà.

+ Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải và giấy triệu tập, quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ cho chị H1 nhưng chị H1 không đến làm việc và cũng không cung cấp chứng cứ cho Tòa án.

+ Tòa án đã thông báo về phiên đối chất và mở phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không đối chất và hòa giải được vì chị H1 vắng mặt.

+ Ngày 28/4/2023 Tòa án đã hoãn phiên tòa vì bị đơn là chị Nguyễn Thị H1 vắng mặt lần thứ nhất không có lý do.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M có đơn xin xét xử vắng mặt, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vắng mặt không có lý do Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu:

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa tuân thủ đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H. Buộc chị Nguyễn Thị H1 giao trả lại căn nhà tại tầng 1 - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang cho ông Nguyễn Văn H.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị H1 phải chịu tiền án phí theo quy định pháp luật.

Về chi phí thẩm định, đo đạc: Ông Nguyễn Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn khởi kiện đòi tài sản là nhà tại đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; bị đơn đăng ký tạm trú tại thành phố B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang là phù hợp quy định tại Điều 26, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, mặc dù đã được triệu tập tống đạt hợp lệ nhưng chị Nguyễn Thị H1 đều vắng mặt. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về nguồn gốc căn nhà tại tầng A - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Ngày 30/12/2014, giữa ông Nguyễn Văn H và Công ty cổ phần T có ký Hợp đồng giao, nhận khoán số 36/HĐ-GK. Theo thoả thuận tại hợp đồng, ông H được toàn quyền sử dụng diện tích đất tại vị trí sân sau dưới nhà tầng 1 tại địa chỉ số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang và xây dựng công trình phù hợp trên đất để sử dụng cho người khác thuê, mượn lại trong thời hạn từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2041.

Tháng 8/2021, ông Nguyễn Văn H có cho chị Nguyễn Thị H1 mượn nhà cấp 4, lợp tôn tại vị trí sân sau nhà dưới tầng 1 tại địa chỉ số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang để làm chỗ ở. Đây là quan hệ dân sự cho mượn tài sản được quy định tại Điều 494 Bộ luật dân sự. Đến nay do có nhu cầu sử dụng nên ông H đề nghị chị H1 trả lại căn nhà tại tầng 1 - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị H1 cho rằng căn nhà trên là tài sản của chị xây dựng lên trên diện tích đất mua của ông H bằng hình thức góp vốn và đã trả tiền cho ông H bằng hình thức chuyển khoản nhưng chị H1 không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh. Do đó yêu cầu của ông H về việc kiện đòi tài sản là phù hợp với quy định tại điều 164, Điều 166 và Điều 499 Bộ luật dân sự nên yêu cầu của ông H được chấp nhận.

[3] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tình tiết, nội dung của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về chi phí thẩm định: Đối với số tiền xem xét thẩm định tại chỗ đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn H đã nộp là 1.000.000 đồng và xin chịu cả, do vậy ông Nguyễn Văn H phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 156 và Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của ông Nguyễn Văn H được chấp nhận, do vậy chị Nguyễn Thị H1 phải chịu án phí dân sự là phù hợp với quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điềm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 156; Điều 157; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ các Điều 164, Điều 166, Điều 499 Bộ Luật dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H. Buộc chị Nguyễn Thị H1 phải trả lại căn nhà tại tầng 1 - khu tập thể cửa hàng điện máy Bắc Giang tại số D, đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang cho ông Nguyễn Văn H.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H1 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về chi phí thẩm định: Ông Nguyễn Văn H xin chịu 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Xác nhận ông Nguyễn Văn H đã thi hành xong khoản tiền này.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30-Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 26/2023/DS-ST

Số hiệu:26/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về