Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 23/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 23/2023/DS-ST NGÀY 29/05/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Trong ngày 29/5/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 212/2022/TLST-DS ngày 26/10/2022 về việc “Tranh chấp đòi tài sản ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2023/QĐXX-ST ngày 18/4/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2023/QĐST-DS ngày 08/5/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Trần Thị B, sinh năm 1955; Địa chỉ: ấp Mỹ L, xã Mỹ H, thị xã C, tỉnh T ;

- Bị đơn : Trần Thị Mỹ D, sinh năm 1990; Địa chỉ: ấp Mỹ L, xã Mỹ H, thị xã C, tỉnh T.

(Có mặt bà B, chị D vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Trần Thị B trình bày:

Vào năm 2014 chị Trần Thị Mỹ D (Là con ruột của bà) có mượn bà 03 chỉ vàng 24kara. Sau khi mượn vàng bà đã nhiều lần yêu cầu chị D trả nhưng chị D đã hẹn mà không trả cho bà số vàng trên. Vào ngày 28/4/2022 bà có làm đơn nhờ chính quyền địa phương giải quyết. Ngày 25/4/2022 chị D có làm cam kết sẽ trả số vàng cho bà vào tháng 5, 6, 7/2022 sẽ trả cho bà. Tuy nhiên từ đó cho đến nay bà đã nhiều lần yêu cầu chị D nhưng chị D không trả. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị D trả cho bà 03 chỉ vàng 24kara.Trả làm một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

* Bị đơn chị Trần Thị Mỹ D mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập, thông báo thụ lý vụ án, các Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị Mỹ D vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị Duyên.

[2] Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa bà Trần Thị B với chị Trần Thị Mỹ D là tranh chấp hợp đồng “ Đòi tài sản ” được xem xét, giải quyết theo Điều 166 Bộ luật dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Tại phiên tòa bà Trần Thị B trình bày vào năm 2014 chị Trần Thị Mỹ D (Là con ruột của bà) có mượn bà 03 chỉ vàng 24kara để làm ăn. Sau khi mượn vàng bà đã nhiều lần yêu cầu chị D trả nhưng chị D đã hẹn mà không trả cho bà số vàng trên. Vào ngày 28/4/2022 bà có làm đơn nhờ chính quyền địa phương giải quyết. Ngày 25/4/2022 chị D có làm cam kết sẽ trả số vàng cho bà vào tháng 5, 6, 7/2022 sẽ trả cho bà. Tuy nhiên từ đó cho đến nay bà đã nhiều lần yêu cầu chị D nhưng chị D không trả. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị D trả cho bà 03 chỉ vàng 24kara.Trả làm một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

Xét thấy tại biên bản hòa giải ngày 25/5/2022 của ấp Mỹ Luận, xã Mỹ hạnh Trung và bản cam kết của chị D ngày 25/5/2022 chị D cam kết sẽ trả cho bà Bế 03 chỉ vàng 24kara vào các tháng 5,6 và tháng 7/2022. Tuy nhiên đến nay chị Duyen không thực hiện gây thiệt thòi cho bà Bế. Đối với chị D Tòa án đã nhiều lần mời đến để hòa giải nhưng chị D cố tình vắng mặt. Xét yêu cầu khởi kiện của bà Bế có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Mỹ D phải chịu án phí theo quy định tại Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39,Điều 147, Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 116, Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

* Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị B.

Buộc chị Trần Thị Mỹ D trả cho bà Trần Thị B số vàng là 03 (ba) chỉ vàng 24kara. Trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về án phí:

+ Theo bảng báo giá thị trường vàng trong nước ngày 29/5/2023 là 5.560.000/1/chỉ x 03 chỉ = 16.680.000 đồng.

Chị Trần Thị Mỹ D phải chịu 834.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Miễn tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị B do bà Bế là người cao tuổi, có đơn xin miễn.

Bà Trần Thị B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng chị Trần Thị Mỹ D có quyền kháng cáo kể từ ngày Tòa án tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản số 23/2023/DS-ST

Số hiệu:23/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về