Bản án về tranh chấp đòi lại tiền đặt cọc số 27/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THẠNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 27/2023/DS-ST NGÀY 19/06/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TIỀN ĐẶT CỌC

Ngày 19 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp về đòi lại tiền đặt cọc, phạt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Phương H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện T, tỉnh L.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là: Chị Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1981; Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện T, tỉnh L. Theo văn bản ủy quyền ngày 29/3/2023 được công chứng tại Văn phòng công chứng T. (xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Hồng N, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp X, xã T, huyện T, tỉnh L. (xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 27/3/2023 của chị Huỳnh Thị Phương H và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của chị H là chị Huỳnh Thị Thu H trình bày tóm tắt như sau:

- Vào ngày 26/11/2019, chị H có đặt cọc số tiền 261.693.000đ cho bà Huỳnh Thị Hồng N để đảm bảo ký kết hợp đồng chuyển nhượng phần đất diện tích 10.016m2 đất ruộng thuộc quyền sử dụng đất của bà N tại ấp L, xã T, huyện T, tỉnh L, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 62.000.000đ/1.000m2. Hai bên có ký kết hợp đồng đặt cọc và có thỏa thuận đầy đủ quyển, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đặt cọc. Tuy nhiên, sau khi hai bên đến Văn phòng công chứng để thực hiện việc ký kết, công chứng hợp đồng thì phát hiện đất có tranh chấp nên không thực hiện việc ký kết, công chứng hợp đồng.

Do đó, chị Huỳnh Thị Phương H khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết:

Buộc bà Huỳnh Thị Hồng N trả lại cho chị H số tiền đặt cọc đã nhận là 261.693.000đ theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019. Buộc bà N phải giao cho chị H số tiền phạt cọc theo thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019 lả 532.386.000đ.

- Tại biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 26/5/2023, người đại diện theo ủy quyền của chị H là chị Huỳnh Thị Thu H xác định sau khi xem nội dung bản tự khai ngày 23/5/2023 của bị đơn là bà Huỳnh Thị Hồng N, thì nguyên đơn có thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau:

+ Đối với phần tiền đặt cọc 261.693.000đ vào ngày 26/11/2019 thì nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc bà Huỳnh Thị Hồng N phải trả lại số tiền cọc đã nhận là 261.693.000đ.

+ Đối với yêu cầu phạt cọc 532.386.000đ theo đơn kiện, nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu phạt cọc, chỉ yêu cầu phạt cọc tương đương với số tiền đã đặt cọc là 261.693.000đ.

- Đối với ý kiến của bà N về việc xin trả dần các khoản tiền trên, nguyên đơn không đồng ý.

Tại bản tự khai ngày 23/5/2023, bị đơn là bà Huỳnh Thị Hồng N trình bày tóm tắt như sau:

Đối với yêu cầu của chị H về việc đòi trả lại số tiền đặt cọc là 261.693.000đ theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019, bà N đồng ý trả lại số tiền đặt cọc đã nhận là 261.693.000đ, nhưng xin trả dần.

Đối với yêu cầu phạt cọc của chị H với số tiền 532.386.000đ, bà N không đồng ý toàn bộ. Bà N xác định bà N là người có lỗi không ký được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà H, lẽ ra bà N chịu phạt cọc số tiền là 261.693.000đ, nhưng do hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, nên xin chị H miễn số tiền phạt cọc là 261.693.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do bị đơn Huỳnh Thị Hồng N đã có bản tự khai thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xin vắng mặt tại tất cả các phiên họp, phiên hòa giải, xét xử của Tòa án, nên Tòa án chỉ thực hiện việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tổ chức hòa giải. Sau đó, vụ án được đưa ra xét xử là đúng quy định của pháp luật. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Huỳnh Thị Phương H là chị Huỳnh Thị Thu H và bị đơn Huỳnh Thị Hồng N đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án, vắng mặt các đương sự.

[1.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Huỳnh Thị Phương H do chị Huỳnh Thị Thu H đại diện theo ủy quyền có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là xin rút lại 01 phần yêu cầu phạt cọc trong tổng số tiền phạt cọc đã khởi kiện là 532.386.000đ, chỉ yêu cầu phạt cọc tương đương với số tiền đã đặt cọc là 261.693.000đ. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu và rút lại một phần yêu cầu khởi kiện nêu trên của đại diện nguyên đơn là tự nguyện, không trái luật, phù hợp quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện mà nguyên đơn đã rút.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị Phương H về việc đòi bị đơn Huỳnh Thị Hồng N trả lại số tiền đặt cọc theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019 là 261.693.000đ, thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án, bà N đồng ý trả lại cho chị H số tiền đặt cọc đã nhận là 261.693.000đ, nhưng do hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, nên xin trả dần. Tuy nhiên, chị H đại diện cho nguyên đơn không đồng ý cho trả dần, pháp luật cũng không quy định việc cho trả dần trong trường hợp bên có quyền không đồng ý, nên cần buộc bà N phải trả lại cho chị H số tiền đặt cọc đã nhận theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019 là 261.693.000đ.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị Phương H về việc đòi bị đơn Huỳnh Thị Hồng N phải chịu phạt cọc số tiền 261.693.000đ, thấy rằng: Theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019, về vấn đề phạt cọc hai bên có thỏa thuận như sau: “Trường hợp bên B (bà N) từ chối việc giao kết hợp đồng thì phải trả lại số tiền đặt cọc và một khoản tiền tương đương bằng số tiền đặt cọc cho bên A (bà H)”. Quá trình giải quyết vụ án, bà N cũng xác định bà N là người có lỗi không ký được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà H, lẽ ra bà N chịu phạt cọc số tiền là 261.693.000đ, nhưng do hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn, nên xin chị H miễn số tiền phạt cọc là 261.693.000đ. Tuy nhiên, chị H đại diện cho nguyên đơn không đồng ý miễn phần tiền phạt cọc 261.693.000đ cho bà N, pháp luật cũng không quy định việc miễn tiền phạt cọc trong trường hợp bên có quyền không đồng ý, nên cần buộc bà N phải trả cho chị H khoản tiền phạt cọc là 261.693.000đ theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn Huỳnh Thị Hồng N phải chịu các khoản án phí gồm: án phí tính trên khoản tiền đặt cọc 261.693.000đ phải trả là 13.084.650đ, án phí tính trên khoản tiền phạt cọc 261.693.000đ phải trả là 13.084.650đ. Nguyên đơn Huỳnh Thị Phương H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 328, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Phương H. Buộc bà Huỳnh Thị Hồng N có trách nhiệm trả cho chị Huỳnh Thị Phương H các khoản tiền sau:

- Khoản tiền đặt cọc theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019 là 261.693.000đ;

- Khoản tiền phạt cọc theo hợp đồng đặt cọc ngày 26/11/2019 là 261.693.000đ;

Thời hạn trả là khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Phương H liên quan đến yêu cầu phạt cọc với số tiền là 261.693.000đ.

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc bà Huỳnh Thị Hồng N phải nộp tổng cộng các khoản án phí là 26.169.300đ sung Ngân sách Nhà nước. Hoàn lại cho chị Huỳnh Thị Phương H các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp tổng cộng là 19.122.720đ theo các biên lai thu số 0004439, 0004440 cùng ngày 10/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh L.

5. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại tiền đặt cọc số 27/2023/DS-ST

Số hiệu:27/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Thạnh - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về