Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 442/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

 BẢN ÁN 442/2023/DS-PT NGÀY 30/11/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Vào các ngày 24 và 30 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 321/2023/TLPT-DS ngày 07 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2023/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 344/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Lê N, sinh năm 1978, cư trú tại: Khu phố L, phường L, thị xã T, tỉnh T. (vắng mặt, có ủy quyền)

Người đại diện theo ủy quyền của chị Phạm Lê N: Anh Nguyễn Lâm Q, sinh năm 1980, cư trú tại: Ấp R, xã T, huyện G, tỉnh T, theo Hợp đồng ủy quyền ngày 18-8-2020. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965, cư trú tại: số A, tổ A, khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Trần Thị T1, sinh năm 1966.

+ Anh Nguyễn Quốc A, sinh năm 1983; chị Hà Thị Trúc P, sinh năm 1983. (anh A có mặt, chị P yêu cầu xét xử vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Minh K, sinh năm 1987; chị Huỳnh Trúc L, sinh năm 1989.

+ Anh Trần Minh L1, sinh năm 1996; chị Nguyễn Thị Phương D, sinh năm 1996. (anh L1 có mặt, chị D yêu cầu xét xử vắng mặt)

Cùng cư trú tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T.

+ Anh Trần Thanh N1, sinh năm 1983; chị Biện Thị Kim T2, sinh năm 1983. Cùng cư trú tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, (chị T2 có mặt, anh N1 yêu cầu xét xử vắng mặt)

Người đại diện theo ủy quyền của chị Biện Thị Kim T2: Ông Hồ Dương L2, sinh năm 1962, cư trú tại: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh T, (có mặt)

+ Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1977; chị Trần Thị Thu T3, sinh năm 1978. Cùng cư trú tại: Khu phố L, phường T, thị xã T, tỉnh T. (anh H có mặt, chị T3 yêu cầu xét xử vắng mặt)

+ Văn phòng C (Văn phòng C), địa chỉ trụ sở: số A, Quốc lộ B, khu phố L, phường T, thị xã T, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn Chí L3, Trưởng Văn phòng. (yêu cầu xét xử vắng mặt)

+ Văn phòng C, tỉnh T, địa chỉ trụ sở: Số A, đường B, khu phố G, phường T, thị xã T, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Sỹ Í, Trưởng Văn phòng.

+ Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, địa chỉ trụ sở: số B - 268, N, phường V, Quận C, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D1, Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của Tổng giám đốc: Ông Nguyẫn Thành T4, Trưởng phòng G, Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, Chi nhánh C1, Thành phố H. (yêu cầu xét xử vắng mặt)

- Người kháng cáo: Chị Biện Thị Kim T2, là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện của chị Phạm Lê N và trong quá trình tham gia tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của chị N là anh Nguyễn Lâm Q trình bày:

Vào ngày 03-7-2020, chị Phạm Lê N có nhận chuyển nhượng của vợ chồng anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 1.100 m2 đất và tài sản gắn liền với đất thửa 258, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, với giá 1.080.000.000 đồng. Đất có Giấy chứng nhận quyền sử dụng số: CS15390 ngày 28-8-2018, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T  cấp, ông Nguyễn Văn T đứng tên, cập nhật biến động cho anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 đứng tên.

Tài sản trên đất là nhà nhưng do không đăng ký quyền sở hữu nên trong hợp đồng chuyển nhượng chỉ ghi đất không ghi nhà, giá chuyển nhượng thì tính cả giá nhà và đất.

Do chuyển nhượng toàn bộ diện tích trong giấy chứng nhận nên không đo đạc, chị N không biết chính xác trên đất có bao nhiêu căn nhà, chỉ nhớ là có nhà của ông T và của con ông T. Anh H có nói với chị N là đất anh mua từ ông T, ông T xin ở nhờ.

Khi chị N xem đất để mua thì chị N và anh H có gặp ông T, ông T cam kết sẽ di dời ngay khi chị N có yêu cầu, việc cam kết chỉ nói miệng với nhau, không lập văn bản.

Ngày 06-7-2020, chị N đã hoàn thành việc kê khai đăng ký biến động, đã được cập nhật vào trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS15390 chị N đứng tên. Sau khi được đứng tên đất, chị N yêu cầu ông T di dời để giao tài sản nhưng ông T không di dời.

Vì vậy, chị N khởi kiện yêu cầu ông T di dời giao trả tài sản cho chị N.

Ông T phản tố yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T với anh H, chị T3 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh H, chị T3 với chị N vô hiệu, chị N không chấp nhận.

Nếu Tòa án buộc phải hủy hợp đồng thì chị N yêu cầu bồi thường theo giá đã định là 1.980.000.000 đồng.

Bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số cs 15390 chị N đã thế chấp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, tại Chi nhánh C1, Thành phố H để vay tiền từ năm 2020 đến nay, chưa đến hạn trả nợ.

- Theo đơn phản tố và trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Nguồn gốc 1.100 m2 đất chị N đang tranh chấp là tài sản riêng của ông hưởng thừa kế của mẹ, ông và vợ là bà Trần Thị T1 sử dụng, có cho vợ chồng của 02 người con trai là Nguyễn Quốc A và Nguyễn Minh K, mỗi người khoảng 05 m xây nhà ra ở riêng.

Vào ngày 16-9-2019, ông vay của vợ chồng anh H, chị T3 700.000.000 đồng; anh H, chị T3 yêu cầu ông phải đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm cam kết chuyển nhượng đất cho anh H, chị T3. Do cần tiền trị bệnh cho vợ nên ông đồng ý ký tên vào giấy cam kết, theo giấy cam kết này thì anh H, chị T3 cho ông vay số tiền 700.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, trả lãi vào ngày 16 dương lịch hàng tháng, tính từ ngày 16-9-2019 đến ngày 16-9-2022, nếu hết thời hạn này ông không trả tiền, không có khả năng chuộc lại đất thì phải giao đất cho anh H, chị T3.

Cùng ngày 16-09-2019, anh H, chị T3 yêu cầu ông ra Văn phòng Công chứng ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đối với diện tích 1.100 m2 đất nêu trên.

Sau khi ký tên vào hợp đồng chuyển nhượng, gia đình ông vẫn quản lý, sử dụng đất, hàng tháng vẫn trả tiền lãi cho anh H, chị T3 và đã trả được 03 tháng, với tổng số tiền là 105.000.000 đồng.

Đến tháng 01 năm 2020, ông vay thêm 100.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, trả lãi được 02 tháng, mỗi tháng 40.000.000 đồng.

Ngày 13-3-2020, ông vay thêm 50.000.000 đồng và tính tổng cộng số tiền vay là 850.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, trả tiền lãi đến ngày 16-3-2020 là 42.500.000 đồng.

Tổng số tiền lãi đã trả là 227.500.000 đồng, mỗi lần trả anh H, chị T3 có ký nhận vào sổ của ông. Do dịch bệnh Covid-19 ông không trả lãi từ ngày 16-3- 2020 đến nay nên anh H, chị T3 đã chuyển nhượng đất cho chị N.

Sau khi chị N nhận chuyển nhượng, có đến gặp ông, yêu cầu ông đến Văn phòng C để ký tên vào giấy thuê nhà đất rồi chị N sẽ đưa thêm cho ông 100.000.000 đồng, nói là tiền anh H tính toán tiền bán đất, trừ tiền vay còn dư của ông 77.000.000 đồng nhưng ông không chấp nhận.

Ông không giao nhà, đất cho chị N. Yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với anh H, chị T3 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh H, chị T3 với chị N vô hiệu vì là hợp đồng giả tạo nhằm che đậy hợp đồng vay. Ông đồng ý trả lại cho anh H, chị T3 số tiền vay 850.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật, tính từ ngày 16-4-2020 đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm; yêu cầu Tòa án tính lại số tiền lãi đã trả vượt quá mức lãi suất pháp luật quy định để trừ vào tiền vay gốc mà ông phải trả cho anh H, chị T3.

Trong 1.100 m2 đất nêu trên, vào tháng 6 năm 2019, tức là trước khi vay tiền của anh H, chị T3, ông đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Trần Thanh N1, chị Biện Thị Kim T2 một phần phía trong, kích thước ngang 06 m, dài hết đất, với giá 288.000.000 đồng. Anh N1, chị T2 đã trả cho ông được 228.000.000 đồng, còn lại 60.000.000 đồng khi nào làm thủ tục sang tên xong sẽ trả, chuyển nhượng bằng giấy tay, chưa làm thủ tục sang tên được vì cơ quan chuyên môn trả lời là không tách thửa được. Anh N1, chị T2 đã xây nhà ở từ năm 2019 đến nay. Ông yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cho anh N1, chị T2.

Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N thì ông yêu cầu chị N bồi thường giá trị nhà cho ông và các con ông theo giá mà Hội đồng định giá đã định; ông đồng ý trả lại cho anh N1, chị T2 số tiền 228.000.000 đồng đã nhận.

- Theo đơn yêu cầu độc lập và trong quá trình tham gia t, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Thanh N1 trình bày:

Vào tháng 6 năm 2019, anh và vợ là Biện Thị Kim T2 nhận chuyển nhượng của ông T phần đất ngang 06 m, dài 28,87 m, nằm trong thửa đất số 258, tờ bản đồ số 11, với giá 288.000.000 đồng, đã trả cho ông T 228.000.000 đồng, còn lại 60.000.000 đồng, vợ chồng anh đã xây nhà ở trên đất từ năm 2019 đến nay. Việc chuyển nhượng có viết giấy tay, có Trưởng ấp Hòa lợi xác nhận nhưng chưa làm thủ tục sang tên vì Nhà nước chưa cho phép, sau khi vợ chồng anh trả tiền cho ông T và xây nhà xong mới biết đất không tách thửa được. Việc ông T thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh H để vay tiền thì vợ chồng anh không biết. Anh yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, vợ chồng anh sẽ trả cho ông Trị số tiền 60.000.000 đồng còn lại.

Nếu Tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng anh và giao đất cho chị N thì anh yêu cầu ông T bồi thường giá trị đất và nhà với số tiền 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Biện Thị Kim T2 trình bày: Chị là vợ của anh Trần Thanh N1, có cùng ý kiến và yêu cầu với anh N1.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Trung H trình bày:

Vào năm 2019, ông T vay tiền của anh và vợ anh là Trần Thị Thu T3 03 lần, tổng cộng 850.000.000 đồng, lần thứ nhất vay 700.000.000 đồng, lần thứ hai vay thêm 100.000.000 đồng và lần thứ ba vay 50.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 5%/tháng. Vì số tiền vay có giá trị lớn nên vào ngày 16-9-2019 vợ chồng anh và ông T thỏa thuận ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 1.100 m2, thửa 258, tờ bản đồ số 11, hai bên thống nhất là sau 03 năm ông T sẽ trả tiền vay cho vợ chồng anh và vợ chồng anh sẽ trả quyền sử dụng đất lại cho ông T, ông T có trách nhiệm trả tiền lãi đầy đủ hàng tháng, nếu vi phạm nghĩa vụ trả lãi 01 tháng thì vợ chồng anh sẽ làm thủ tục sang tên đất, hợp đồng co công chứng tại Văn phòng Công chứng, ông T giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh giữ.

Sau khi vay, ông T đã trả tiền lãi tổng cộng là 227.500.000 đồng, đến ngày 16-3-2020 ngưng không trả lãi, ông T nói không còn khả năng thanh toán, anh yêu cầu ông T bán đất cho ai được thì cứ bán để trả tiền vay cho anh nhưng ông T không bán được và chấp nhận cho anh sang tên đất. Do phải thu hồi nợ vay nên anh phải bán đất cho chị N với giá 1.080.000.000 đồng. Lấy tiền bán đất trừ đi nợ gốc 850.000.000 đồng, tiền lãi tính từ ngày 16-6-2020 là 127.500.000 đồng, tiền thuế, phí chuyển nhượng, còn dư 77.000.000 đồng, anh có gửi số tiền này cho chị N để chị N trả lại cho ông T.

Ông T tự nguyện giao đất trừ nợ, anh bán đất cho chị N là đúng quy định pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Anh yêu cầu Tòa án giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng giữa ông T và vợ chồng anh; hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng anh và chị N.

Nếu Tòa án tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu thì anh yêu cầu ông T trả cho vợ chồng anh số tiền vay gốc là 850.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật, tính từ ngày 16-4-2020 đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm, số tiền lãi ông T đã trả có vượt quá mức lãi suất pháp luật cho phép thì anh chấp nhận trừ vào nợ gốc.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trn Thị Thu T3 trình bày: Chị là vợ của anh Nguyễn Trung H, chị có cùng ý kiến và yêu cầu với anh H.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Trần Thị T1 trình bày: Bà là vợ ông Nguyễn Văn T, thống nhất theo yêu cầu ông T.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Nguyn Quốc A trình bày: Anh là con ruột của ông T. Vào năm 2007, khi anh cưới vợ, ông T cho vợ chồng anh xây nhà trên phần đất ngang 5 m, dài 18 m trong tổng diện tích 1.100 m2, thửa 258 ở cho đến nay. Anh có cùng ý kiến và yêu cầu với ông T.

Nếu Tòa án giao đất cho chị N thì anh yêu cầu chị N bồi thường giá trị nhà cho vợ chồng anh theo giá Hội đồng định giá đã định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Hà Thị Trúc P trình bày: Chị là vợ của anh Nguyễn Quốc A, thống nhất theo yêu cầu của anh A.

- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Nguyễn Minh K trình bày:

Anh là con ruột của ông T. Vào năm 2009, khi anh cưới vợ, ông T cho vợ chồng anh xây nhà trên phần đất ngang 5 m, dài 20 m trong tổng diện tích 1.100 m2, thửa 258 ở cho đến nay, anh nhất theo yêu cầu của ông T.

Nếu Tòa án giao đất cho chị N thì anh yêu cầu chị N bồi thường giá trị nhà cho vợ chồng anh theo giá Hội đồng định giá đã định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Huỳnh Trúc L trình bày: Chị là vợ của anh Nguyễn Minh K, thống nhất theo yêu cầu của anh K.

- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Trn Minh L1 trình bày: Anh là con ruột của ông T, anh và vợ là Nguyễn Thị Phương D sống chung nhà với ông T, anh thống nhất theo yêu cầu của ông T.

- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Nguyn Thị Phương D trình bày: Chị là vợ anh Trần Minh L1, thống nhất theo yêu cầu của anh L1.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Văn phòng C, do ông Lê Văn Chí L3 đại diện theo pháp luật, có văn bản trình bày:

Văn phòng C có thời gian đổi tên thành Văn phòng Công chứng Đ, sau đó đổi lại thành Văn phòng Công chứng L4.

Có chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16-9- 2019, bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T, bên nhận chuyển nhượng là vợ chồng anh Nguyễn Trung H, bà Trần Thị Thu T3, đất chuyển nhượng là 1.100 m2, thửa 258, tờ bản đồ số 11, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy: CS15390 ngày 28-8-2018, ông Nguyễn Văn T đứng tên, đất tọa lạc tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, số công chứng 2575, Quyển số: 13/TP/CC-SCC/HĐGD, giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 50.000.000 đồng, hai bên tự giao nhận tiền với nhau.

Trong khoản thời gian đổi tên thành Văn phòng Công chứng Đ thì vào ngày 13-3-2020 có chứng nhận hợp đồng với nội dung như đã nêu trên, chỉ khác giá đất chuyển nhượng là 850.000.000 đồng, số công chứng 614, Quyển số: 04/2020/TP/CC-SCC/HĐGD.

Việc công chứng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục công chứng và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Đối với việc ông T yêu cầu tuyên bố hợp đồng công chứng vô hiệu thì yêu cầu Tòa án xử lý theo quy định pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Văn phòng C, do ông Nguyên Sỹ Í đại diện theo pháp luật, có văn bản trình bày:

Văn phòng công chứng Nguyễn Sỹ Í có chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 03-7-2020, giữa bên chuyển nhượng là anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 và bên nhận chuyển nhượng là chị Phạm Lê N, đất chuyển nhượng là 1.100 m2, thửa 258, tờ bản đồ số 11, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy: CS 15390 ngày 28-8-2018, ông Nguyễn Văn T đứng tên, ghi chú biến động tại trang 04 chuyển nhượng cho anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 đứng tên vào ngày 23-4-2020, số công chứng 1221, Quyển số: 13/TP/CC-SCC/HĐGD.

Việc công chứng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan, Ngân hàng Thương mại C phần S, do ông Nguyễn Thành T4 đại diện theo ủy quyền, có văn bản trình bày:

Chị Phạm Lê N có vay tiền của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, tại Chi nhánh C1, Thành phố H, theo Hợp đồng tín dụng số: 202025541526 ngày 30-7-2020, Hợp đồng tín dụng sửa đổi, bổ sung số: 1/202025541526 ngày 29-9-2022.

Tài sản thế chấp là 1.100 m2 đất thửa 258, tờ bản đồ số 11, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy: CS15390 ngày 28-8-2018, ông Nguyễn Văn T đứng tên, ghi chú biến động lần thứ hai tại trang 04 chuyển nhượng cho chị Phạm Lê N đứng tên vào ngày 06-7-2020, đất tọa lạc tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, theo Hợp đồng thế chấp tài sản số: 5204693/2020/AH ngày 30-7-2020.

Từ ngày vay đến nay chị N thanh toán nợ đúng kỳ hạn, tính đến ngày 16- 11-2022 dư nợ là 1.290.000.000 đồng, lãi suất 12,45%/năm.

Yêu cầu chị N trả hết nợ vay gốc và nợ lãi đúng theo hợp đồng, trước khi Ngân hàng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2023/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T, quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Lê N đối với ông Nguyễn Văn T về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”.

Buộc ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1, anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P, anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L, chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 giao cho chị Phạm Lê N quyền sử dụng đất diện tích 1.100 m2 thuộc thửa 258, tờ bản đồ số 11, tại khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T do chị N đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng các tài sản trên đất, có tứ cận như sau: Đông giáp thửa số 257 dài 33,19m; Tây giáp thửa số 239 dài 27,25m + 06m; Nam giáp đường nhựa dài 7,47m, giáp thửa số 260 dài 27,71m; Bắc giáp thửa 224 dài 28,87m.

Chị Phạm Lê N có nghĩa vụ bồi thường cho ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1 số tiền 263.777.000 (hai trăm sáu mươi ba triệu bảy trăm bảy mươi bảy nghìn) đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P số tiền 50.060.000 (năm mươi triệu không trăm sáu mươi nghìn) đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L số tiền 107.203.000 (một trăm lẻ bảy triệu hai trăm lẻ ba nghìn) đồng và bồi thường cho anh Trần Thanh N1, chị Biện Thị Kim T2 số tiền 343.704.000 (ba trăm bốn mươi ba triệu bảy trăm lẻ bốn nghìn) đồng.

Ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1, anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P, anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L, chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 được quyền lưu cư trong thời hạn 06 (sáu) tháng, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T.

Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16-9-2019, Số công chứng 2575, quyển số 13/2019/TP/CC-SCC/HĐGD và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13-3-2020, số công chứng 614, quyển số 04/2020/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C giữa ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 vô hiệu.

Buộc anh Nguyễn Trung H và chị Trần Thị Thu T3 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 351.793.000 (ba trăm năm mươi mốt triệu bảy trăm chín mươi ba nghìn) đồng.

Không chấp nhận yêu cầu độc lập của chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với ông Nguyễn Văn T.

Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23-7-2019 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16-8-2019 giữa ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1 với chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 vô hiệu.

Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị T1 có nghĩa vụ trả cho chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 số tiền 238.403.000 (hai trăm ba mươi tám triệu bốn trăm lẻ ba nghìn) đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng khác; án phí; quyền kháng cáo; quyền, nghĩa vụ thi hành án của các bên đương sự.

- Ngày 14-8-2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Biện Thị Kim T2 kháng cáo: Yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1 và vợ chồng chị có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự vì đã trả hơn 2/3 giá trị đất, ông T đã giao đất, vợ chồng chị đã xây nhà kiên cố từ khi nhận chuyển nhượng cho đến nay.

- Ngày 21-11-2023, chị T2 có bản trình bày bổ sung kháng cáo: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 và chị Phạm Lê N vô hiệu; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa chị Phạm Lê N và Ngân hàng Thương mại Cổ phần S vô hiệu do không tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan.

- Tại phiên tòa phúc thẩm:

Chị Biện Thị Kim T2 và người đại diện theo ủy quyền của chị T2 là ông Hồ Dương L2, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của chị T2.

- Ý kiến của Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tham gia phiên tòa:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2023/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T.

- Trong quá trình Hội đồng xét xử nghị án, chị Phạm Lê N có đơn đề nghị, ngoài số tiền thanh toán cho vợ chồng chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 như bản án sơ thẩm đã tuyên, chị N tự nguyện hỗ trợ cho chị T2, anh N1 150.000.000 (một trăm năm chục triệu) đồng.

- Hội đồng xét xử trở lại phần xét hỏi để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng chị T2 không thỏa thuận, không chấp nhận việc hỗ trợ của chị N, giừ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người đại diện theo ủy quyền của chị N giữ nguyên yêu cầu về việc hỗ trợ cho chị T2, anh N1 số tiền 150.000.000 đồng.

- Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T giữ nguyên quan điểm, không chấp nhận kháng cáo của chị T2, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm ghi nhận việc chị Phạm Lê N tự nguyện hỗ trợ cho chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 số tiền 150.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2 là hợp lệ, đúng theo quy định tại các Điều: 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoán 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt họ.

Xét về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, Chi nhánh C1, thấy rằng: Theo quy định tại Điều 84 của Bộ luật Dân sự thì chi nhánh không phải là pháp nhận mà là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân. Đối chiếu quy định này thì pháp nhân tham gia tố tụng là Ngân hàng Thương mại Cổ phần S nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đưa Chi nhánh C1 vào tham gia tố tụng trong vụ án là không đúng. Tuy nhiên, vi phạm này không làm ảnh hưởng quyền lợi của các bên đương sự và Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục được nên không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm vì lý do này.

[2] Xét kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2, thấy rằng:

Phần đất chị T2 nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn T là 150 m2 trong tổng diện tích 1.100 m2, thửa 258, tờ bản đồ số 11 mà ông T đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng anh Nguyễn Trung H, chị Nguyễn Thị Thu T5, giữa ông T và anh H, chị T5 có 02 lần ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất, xét các giao dịch đã ký kết, thấy rằng:

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 16-9-2019, bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T, bên nhận chuyển nhượng là anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3, có công chứng tại Văn phòng C, số C, Quyển số: 13/2019/TP/CC-SCC/HĐGD, ghi giá đất chuyển nhượng là 50.000.000 đồng và Giấy cam kết lập cùng ngày 16-9-2019, là giả tạo nhằm che đậy hợp đồng vay, từ sau khi ký kết vẫn tiếp tục giao dịch vay.

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 13-3-2020, bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn T, bên nhận chuyển nhượng là anh Nguyên Trung H, chị Trần Thị Thu T3, có công chứng tại Văn phòng C, số C, Quyển số: 04/2020/TP/CC-SCC/HĐGD, ghi giá đất chuyển nhượng là 850.000.000 đồng, đúng với số tiền vay gốc ông T nợ anh H, chị T3, tính đến thời điểm tháng 3 năm 2020.

Ông T xác định vay tiền là để trị bệnh cho vợ, đến tháng 3 năm 2020 không còn khả năng trả tiền lãi theo thỏa thuận ghi trong Giấy cam kết sang nhượng nhà đất vào ngày 16-9-2019 và đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng đất vào ngày 13-3-2020 để trừ vào nợ vay. Sau khi chuyển nhượng được 1.080.000.000 đồng, anh H vẫn tính toán trừ vào nợ vay gốc, nợ lãi và các chi phí, còn dư 77.000.000 đồng chấp nhận trả lại cho ông T, đất là tài sản ông T hưởng thừa kế của cha mẹ và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vợ ông T là bà Trần Thị T1 không tranh chấp.

Vì vậy, có căn cứ xác định việc ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 13-3-2020, giữa ông T và anh H, chị T3 là trên cơ sở tự nguyện của các bên để trừ nợ vay, anh H và chị T3 đã đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngày 23-4-2020.

Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 và chị Phạm Lê N, có công chứng tại Văn phòng C vào ngày 03-7-2020, đối với 1.100 m2 đất nêu trên là có thật, giá chuyển nhượng tương đương với giá thị trường tại thời điểm chuyển nhượng; về trình tự, thủ tục đúng theo quy định tại Điều 167, 188 của Luật Đất đai và Điều 502 của Bộ luật Dân sự, là hợp pháp, ngay tình nên được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Dân sự. Việc không làm rõ tài sản trên đất làm ảnh hưởng quyền lợi của ông T và các con ông T, Tòa án cấp sơ thẩm phán quyết đất thuộc quyền sử dụng của chị N, chị N bồi thường giá trị tài sản cho ông T và con ông T, họ không kháng cáo nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét lại giao dịch này trên cơ sở yêu cầu kháng cáo của chị T2 về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất phần 150 m2 giữa ông T, bà T1 và chị T2, anh N1.

Xét việc chuyển nhượng phần 150 m2 đất giữa ông T, bà T1 và vợ chồng chị T2, anh N1, thấy rằng: Hợp đồng không công chứng, chứng thực; tuy bên chị T2 đã trả ít nhất 2/3 giá trị đất nhưng không thuộc trường hợp công nhận hợp đồng theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự, bởi vì Điều 129 của Bộ luật Dân sự áp dụng cho trường hợp hợp đồng chuyển nhượng không tuân thủ về hình thức, không công chứng, còn việc chuyển nhượng đất giữa bên ông T và bên chị T2 là không thể thực hiện được do đất không đúng quy hoạch sử dụng đất của địa phương, không đủ diện tích tối thiểu để tách thửa theo Quyết định số: 28/2020/QĐ-UBND ngày 27 tháng 7 năm 2020, về việc Ban hành Quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh T nay là Quyết định số 10/2023/QĐ-UBND ngày 26 tháng 4 năm 2023, của Ủy ban nhân dân tỉnh T , quy định về điều kiện tách thửa đất, hợp thửa đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất trên địa bàn tỉnh T.

Ngoài ra, xét về hiện trạng sử dụng đất của chị T2, anh N1, thấy rằng: Đất chị T2, anh N1 nhận chuyển nhượng ở vị trí trong cùng của thửa đất 258, khi chuyển nhượng hai bên không thỏa thuận về lối đi ra mà chị T2 sử dụng lối đi ông T tự mở từ trước. Tại phiên tòa phúc thẩm, bên chị T2 cho rằng lối đi này là chung của anh chị em ông T nhưng không có chứng cứ chứng minh, theo văn bản thỏa thuận của các anh chị em cho ông T hưởng di sản của cha mẹ là 1.100 m2 đất thửa 258, nội dung giao cho ông T hưởng toàn bộ 1.100 m2 đất, ngoài ra không có thỏa thuận nào khác về lối đi, căn cứ theo thỏa thuận này ông T đã đứng tên đất, các anh chị em ông T không tranh chấp. Vì vậy, nếu tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng thì đất bên chị T2 cũng không có lối đi ra.

Chị T2 yêu cầu tuyên bố các giao dịch chuyển nhượng đất và thế chấp quyền sử dụng đất thửa 258 vô hiệu để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng chị theo hợp đồng chuyển nhượng phần đất 150 m2 giữa ông T, bà T1 và vợ chồng chị nhưng hợp đồng này không đủ điều kiện có hiệu lực pháp luật và không thể thực hiện được.

Về việc xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu đối với chị T2, anh N1, Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết đúng theo quy định pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Phạm Lê N tự nguyện hỗ trợ cho chị T2, anh N1 150.000.000 đồng ngoài các khoản tiền theo bản án sơ thẩm đã tuyên nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tham gia phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của chị T2, sửa bản án sơ thẩm để ghi nhận chị N tự nguyện hỗ trợ cho chị T2, anh N1 150.000.000 đồng là có căn cứ.

[5] Bản án sơ thẩm quyết định đúng về giải quyết nội dung tranh chấp nhưng có các sai sót sau đây cần phải sửa:

- Xác định yêu cầu khởi kiện của chị N là đòi lại tài sản nhưng không áp dụng Điều 166 của Bộ luật Dân sự; xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu theo quy định của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004, của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhưng không ghi vào bản án là thiếu sót, cấp phúc thẩm bổ sung cho đúng.

- Yêu cầu phản tố của ông T còn một phần là yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa anh H, chị T3 và chị N vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận nên buộc bên ông T và bên chị T2 giao nhà đất cho chị N nhưng bản án sơ thẩm không tuyên là thiếu sót.

- Đất tranh chấp hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng chị N đang thế chấp tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần S theo Hợp đồng thế chấp số: 5204693/2020/AH ngày 30-7-2020 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu Ngân hàng cung cấp lời khai về việc thế chấp và cung cấp các tài liệu chứng cứ chứng minh để Tòa án xem xét việc thế chấp có đúng quy định pháp luật hay không là thiếu sót, Tòa án cấp phúc thẩm phải bổ sung. Do yêu cầu kháng cáo của chị T2 không được chấp nhận, quyền sử dụng đất thuộc về chị N nên việc thế chấp không ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác, Ngân hàng và chị N không tranh chấp hợp đồng thế chấp nên các bên được tiếp tục thực hiện theo hợp đồng.

- Anh Trần Minh L1, chị Nguyễn Thị Phương D là người sống cùng với ông T, cùng quản lý tài sản tranh chấp, Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa họ vào tham gia tố tụng trong vụ án nhưng khi buộc giao nhà, đất cho chị N không buộc họ là thiếu sót, Tòa án cấp phúc thẩm phải bổ sung.

[6] Yêu cầu kháng cáo của chị T2 không có căn cứ chấp nhận nhưng do bản án sơ thẩm có các sai sót như đã nêu trên và tại phiên tòa phúc thẩm chị N tự nguyện hỗ trợ cho chị T2, anh N1 150.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm đối với các vấn đề sai sót và ghi nhận sự tự nguyện của chị N.

[7] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được Tòa án chấp nhận nên theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị T2 phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 157, khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, 117, 124, 131, 133, 466, 468, 470, 502, 503, của Bộ luật Dân sự; Điều 167, 188 của Luật Đất đai; Nghị quyết số: 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004, của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 26, 27, 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2.

2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 40/2023/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2023, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T.

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Lê N đối với ông Nguyên Văn T về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.

Buộc ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1, anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P, anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L, anh Trần Minh L1, chị Nguyễn Thị Phương D, chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 phải giao cho chị Phạm Lê N quyền sử dụng đất diện tích 1.100 m2 thuộc thửa 258, tờ bản đồ số 11, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CS15390 ngày 08-8-2018, ông Nguyễn Văn T đứng tên, cập nhật biến động cho chị Phạm Lê N đứng tên vào ngày 06-7-2020, đất tọa lạc tại: Khu phố H, phường A, thị xã T, tỉnh T, có tứ cận: Đông giáp thửa số 257 dài 33,19m; Tây giáp thửa số 239 dài 27,25m + 06m; Nam giáp đường nhựa dài 7,47m, giáp thửa số 260 dài 27,71m; Bắc giáp thửa 224 dài 28,87m (có Bản trích đo hiện trạng sử dụng đất kèm theo bản án), Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên chị N đang thế chấp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần S, tại Chi nhánh C1, Thành phố H.

Chị Phạm Lê N được sở hữu toàn bộ tài sản trên đất.

Chị Phạm Lê N có nghĩa vụ bồi thường giá trị tài sản trên đất như sau: Bồi thường cho ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị TI 263.777.000 (hai trăm sáu mươi ba triệu bảy trăm bảy mươi bảy nghìn) đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P 50.060.000 (năm mươi triệu không trăm sáu mươi nghìn) đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L 107.203.000 (một trăm lẻ bảy triệu hai trăm lẻ ba nghìn) đồng; bồi thường cho anh Trần Thanh N1, chị Biện Thị Kim T2 343.704.000 (ba trăm bốn mươi ba triệu bảy trăm lẻ bốn nghìn) đồng.

Ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1, anh Nguyễn Quốc A, chị Hà Thị Trúc P, anh Nguyễn Minh K, chị Huỳnh Trúc L, anh Trần Minh L1, chị Nguyễn Thị Phương D, chị Biện Thị Kim T2 và anh Trần Thanh N1 được quyền lưu cư trong thời hạn 06 (sáu) tháng, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T.

Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16-9-2019, Số công chứng 2575, Quyển số: 13/2019/TP/CC- SCC/HĐGD và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13-3-2020, số công chứng 614, Quyển số 04/2020/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C, giữa ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 vô hiệu.

Buộc anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 351.793.000 (ba trăm năm mươi mốt triệu bảy trăm chín mươi ba nghìn) đồng.

2.3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 và chị Phạm Lê N, có công chứng tại Văn phòng C, số công chứng 1221, Quyển số 13/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03-7-2020 vô hiệu.

Công nhận Hợp đồng công chứng số công chứng 1221, Quyển số 13/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03-7-2020 nêu trên có hiệu lực pháp luật.

2.4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với ông Nguyễn Văn T.

Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23-7-2019 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16-8-2019 giữa ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1 với chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 vô hiệu.

Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Trần Thị T1 trả lại tiền chuyển nhượng đất và bồi thường thiệt hại cho chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 với số tiền 238.403.000 (hai trăm ba mươi tám triệu bốn trăm lẻ ba nghìn) đồng.

2.5. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chưa giao đủ số tiền phải thi hành như đã nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2.6. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2 về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 và chị Phạm Lê N, có công chứng tại Văn phòng C, Số công chứng 1221, Quyển số 13/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03-7-2020 vô hiệu; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Biện Thị Kim T2 về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản số: 5204693/2020/AH ngày 30-7- 2020, giữa bên thế chấp là chị Phạm Lê N và bên nhận thế chấp là Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, tại Chi nhánh C1, Thành phố H vô hiệu.

Ghi nhận chị Phạm Lê N và Ngân hàng Thương mại cổ phần s không tranh chấp, không yêu cầu gì đối với Hợp đồng thế chấp tài sản số: 5204693/2020/AH ngày 30-7-2020.

2.7. Ghi nhận chị Phạm Lê N tự nguyện hỗ trợ cho chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 150.000.000 (một trăm năm chục triệu) đồng.

2.8. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tranh chấp: Chị Phạm Lê N tự nguyện chịu 3.700.000 (ba triệu bảy trăm nghìn) đồng, ghi nhận đã nộp xong.

2.9. Về án phí sơ thẩm:

Chị Phạm Lê N phải chịu 34.590.000 đồng, được trừ vào 22.200.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0014635 ngày 08 tháng 10 năm 2020, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T, số tiền chị N còn phải nộp là 12.390.000 (mười hai triệu ba trăm chín mươi nghìn) đồng.

Ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị T1 phải chịu 12.220.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu sô: 0026414 ngày 11 tháng 02 năm 2022, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T, số tiền ông T, bà T1 còn phải nộp là 11.920.000 (mười một triệu chín trăm hai mươi nghìn) đồng.

Chị Biện Thị Kim T2, anh Trần Thanh N1 phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0026658 ngày 16 tháng 6 năm 2022, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T.

Anh Nguyễn Trung H, chị Trần Thị Thu T3 phải chịu 17.890.000 (mười bảy triệu tám trăm chín mươi nghìn) đồng.

3. Về án phí phúc thẩm: Chị Biện Thị Kim T2 phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0027450 ngày 11 tháng 8 năm 2023, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 442/2023/DS-PT

Số hiệu:442/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về