Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 340/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN TRN VĂN THỜI, TNH CÀ MAU

BẢN ÁN 340/2023/DS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 604/2023/TLST-DS ngày 25 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 372/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc K, Sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn:

1. Bà Cao Hồng P, Sinh năm 1977 (có mặt)

2. Ông Lý Hoàng G (Lý Văn G1), Sinh năm 1979 (vắng mặt) Cùng địa chỉ cư trú: Ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Trương Hồng T, sinh năm 1987 (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà T1: Ông Nguyễn Quốc K, Sinh năm 1983 (Văn bản ủy quyền ngày 19/7/2023, có mặt) Cùng địa chỉ cư trú: Ấp A, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 24/7/2023 và quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Quốc K trình bày:

Vào ngày 28/6/2021 ông Lý Hoàng G và vợ bà Cao Hồng P có cầm cố cho ông phần đất trồng lúa và nuôi trồng thủy hải sản diện tích 6.480m2, đất tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau giá cầm cố 25 chỉ vàng 24k thời hạn cố đất là đến tháng 01/2027, hai bên lập hợp đồng cầm cố ngày 28/6/2021.

Sau khi cầm cố cho ông thì ông G, bà P giao đất cho ông sử dụng, ông nuôi cá trên phần đất này thì ông G, bà P bắt cá của ông nuôi nên thường cho ông 18.000.000 đồng, đồng thời ông G, bà Phướng thỏa thuận lại với ông vào ngày 12/9/2022, ông giao đất cho ông G, bà P thuê đến hết tháng 12/2022, hai bên chấm dứt hợp đồng cố đất, ông G và bà P trả lại ông vàng cầm cố 25 chỉ vàng 25k. Ông yêu cầu vợ chồng ông G, bà P trả cho ông 2 chỉ vàng 24k. Tại phiên tòa ông đồng ý tự nguyện đưa lại cho ông G, bà P 2.000.000 đồng mà ông G, bà P đã đưa cho ông tiền thuê đất.

Tại phiên tòa bà Cao Hồng P thừa nhận vợ chồng bà có cầm cố đất cho ông K và có thỏa thuận lại như ông K trình bày là đúng, hiện tại phần đất cầm cố vợ chồng bà đang quản lý, sử dụng. Sau khi vợ chồng bà thỏa thuận lại với ông K ngày 12/9/2022 thì có đưa cho ông K 2.000.000 đồng tiền thuê đất. Bà xác định do thời hạn cầm cố đất giữa vợ chồng bà và ông K chưa hết, do đó yêu cầu của ông K yêu cầu trả 25 chỉ vàng 24k vợ chồng bà không có trả.

Phần tranh luận các đương sự không có ý kiến trình bày tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định “Tranh chấp đòi lại tài sản” theo quy định tại Điều 166 Bộ luật dân sự, bị đơn cư trú tại huyện T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vắng mặt đương sự: Ông Lý Hoàng G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, bà Trương Hồng T vắng mặt có người đại diện theo ủy quyền có mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp: Theo ông K xác định vào ngày 28/6/2021 ông G và vợ bà P cố cho ông phần đất diện tích 6.480m2 đất tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau giá thỏa thuận 25 chỉ vàng 24k thời hạn cố đến tháng 01/2027 có làm hợp đồng cầm cố. Sau khi cố đất ông G, bà P giao đất cho ông K quản lý, sử dụng. Sau đó hai bên thỏa thuận lại ông K giao lại đất cho ông G, bà P và cho thuê phần đất cố đến hết tháng 12/2022, hai bên chấm dứt hợp đồng cầm cố đất, ông G, bà P trả cho ông 2 chỉ vàng cầm cố. Do ông G, bà P không thực hiện đúng theo thỏa thuận, ông K yêu cầu ông G, bà P trả vàng cầm cố 25 chỉ vàng 24k.

[3] Ông Lý Hoàng G đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không có ý kiến hay phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tại phiên tòa bà Cao Hồng P thừa nhận vợ chồng bà có cầm cố đất cho ông K và có thỏa thuận lại như ông K trình bày là đúng đây là tình tiết sự kiện pháp lý không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Hội đồng xét xử thấy rằng việc vợ chồng ông G, bà P cầm cố đất cho ông K giá 25 chỉ vàng 24k, phần đất tại ấp K, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau thời hạn cầm cố là đến tháng 01/2027 là thực tế có xảy ra. Sau khi cầm cố hai bên thỏa thuận lại chất dứt việc cầm cố vào tháng 12/2022, ông K đã giao đất cho vợ chồng ông G, bà P, nhưng vợ chồng ông G bà P chưa trả lại vàng cầm cố cho ông K 25 chỉ vàng 24k như hai bên đã thỏa thuận. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối bị đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông K trả lại cho ông G, bà P số tiền 2.000.000 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chịu theo quy định 6.950.000 đồng ((25 chỉ vàng 24k x 5.560.000 đồng/chỉ = 139.000.000 đồng) x 5%), nguyên đơn được nhận lại tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điềm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 157, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quốc K đối với ông Lý Hoàng G, bà Cao Hồng P. Buộc ông Lý Hoàng G, bà Cao Hồng p trả cho ông Nguyễn Quốc K 25 chỉ vàng 24k (hai mươi lăm chỉ vàng, hai mươi bốn kara).

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Quốc K trả lại cho ông Lý Hoàng G, bà Cao Hồng P số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Quốc K không phải chịu án phí sơ thẩm. Ngày 24/7/2023 ông K có dự nộp tiền tạm ứng án phí số tiền 3.897.000 đồng biên lai thu số 0007123 tại Cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.

Buộc ông Lý Hoàng G, bà Cao Hồng P phải chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch 6.950.000 đồng (chưa nộp).

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo luật định.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 340/2023/DS-ST

Số hiệu:340/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về