Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 143/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIU, THÀNH PH CẦN THƠ

BẢN ÁN 143/2023/DS-ST NGÀY 11/07/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 564/2022/TLST-DS ngày 13 tháng 12 năm 2022 về “Tranh chấp đòi lại tài sản” theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 347/2023/QĐXX-ST ngày 20 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:Nguyễn Thị Ngọc C sinh năm: 1980 Địa chỉ: Số B, T, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền của bà C:

1/ Bà Lê Ngọc A, sinh năm: 1984 (có mặt) Địa chỉ: Số H, tổ D, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ.

2/ Bà Đoàn Thị Diễm T, sinh năm: 1996 Địa chỉ: Ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn:

1/ Ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm: 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Số C, Hẻm A, đường M, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ.

2/ Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm: 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Số B, Trần Quang D, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị Ngọc C và trong quá trình giải quyết đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - bà Lê Ngọc A trình bày:

Nguyên bà Nguyễn Thị Ngọc C có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số 55, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại đường số A, KDC V, khu vực 3, C, phường C, Q. N, TP . cho ông Nguyễn Thanh T1 với giá là 26.000.000.000 đồng theo Hợp đồng sửa đổi, bổ sung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 1885, quyển số 03/2022, TP/CC - HĐGD được Văn phòng C1 chứng nhận ngày 28/03/2022. Theo thỏa thuận, ông T1 có nghĩa vụ thanh toán đợt 01 cho bà số tiền 4.000.000.000 đồng vào ngày 15/03/2022. Tuy nhiên, khi thanh toán đợt 01, ông T1 lại thanh toán vào tài khoản của bà Nguyễn Thị Ngọc B chứ không thanh toán vào tài khoản của bà C. Sau đó, các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng và các đương sự đã hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định. Tuy nhiên, khi bà C yêu cầu bà B chuyển trả cho bà số tiền 4.000.000.000 đồng mà bà B đang giữ thì bà B chỉ chuyển cho bà C số tiền 3.000.000.000 đồng, số tiền 1.000.000.000 đồng còn lại bà B không chuyển cho bà C. Lý do bà B cho rằng ông T1 chỉ chuyển cho bà B 3.000.000.000 đồng chứ không phải 4.000.000.000 đồng. Sau khi bà nhiều lần yêu cầu bà B và ông T1 giải quyết vấn đề này cho bà nhưng vẫn chưa giải quyết được, bà C vẫn chưa nhận được đủ số tiền 4.000.000.000 đồng theo thỏa thuận.

Nay bà C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Thanh T1, bà Nguyễn Thị Ngọc B có trách nhiệm liên đới trả cho bà C số tiền 1.000.000.000 đồng và lãi suất 10%/năm tính từ ngày nộp đơn khởi kiện đến khi Tòa án xét xử sơ thẩm và cho đến khi thanh toán xong nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, thông báo hợp lệ đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 và bà Nguyễn Thị Ngọc B để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T1 và bà B đều vắng mặt không lý do. Mặt khác, đại diện nguyên đơn có yêu cầu không qua thủ tục hòa giải, đề nghị đưa vụ án ra xét xử nên Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa:

- Đại diện nguyên đơn - bà Lê Ngọc A trình bày: Trước đây, bà Nguyễn Thị Ngọc C kiện ông Nguyễn Thanh T1 buộc ông T1, bà B liên đới trả số tiền 1.000.000.000 đồng cho bà C. Tuy nhiên, sau khi tiếp cận chứng cứ là bản sao kê tại Ngân hàng thì bà thấy rằng ông T1 đã chuyển đủ số tiền 4.000.000.000 đồng cho bà B. Vì vậy, bà rút lại yêu cầu khởi kiện đối với ông T1. Nay bà Chỉ khởi kiện yêu cầu bà B phải trả lại cho bà C số tiền 1.000.000.000 đồng và lãi suất 10%/năm từ ngày bà C có đơn khởi kiện (09/12/2022) cho đến ngày xét xử sơ thẩm và cho đến khi thanh toán xong nợ.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Nguyễn Thanh T1 vắng mặt nên không có ý kiến gì thêm.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ. Bị đơn không tuân thủ theo giấy triệu tập của Tòa án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ tham gia các phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ ba nên đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C đối với ông Nguyễn Thanh T1 về việc liên đới cùng với bà Nguyễn Thị Ngọc B trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C số tiền 1.000.000.000 đồng.

+ Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C số tiền: 1.000.000.000 đồng và lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ từ ngày nguyên đơn khởi kiện cho đến khi thanh toán xong nợ với mức lãi suất 10%/năm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Bà Nguyễn Thị Ngọc C và ông Nguyễn Thanh T1 đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nhau. Tuy nhiên, bà C cho rằng ông T1 và bà B chưa chuyển trả đủ cho bà. Nên bà C có đơn khởi kiện yêu cầu ông T1 và bà B cùng có trách nhiệm liên đới trả cho bà số tiền còn nợ. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp đòi lại tài sản”, bị đơn cư trú tại quận N nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng:

- Bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 và bà Nguyễn Thị Ngọc B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia các phiên tòa nhưng vắng mặt, không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông bà theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 16/QĐ- BPKCTT ngày 14/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều. Nhận thấy, để đảm bảo cho việc thi hành án cần phải tiếp tục duy trì Quyết định này cho đến khi thi hành án xong.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Ông Nguyễn Thanh T1 cùng liên đới với bà Nguyễn Thị Ngọc B trả cho nguyên đơn s tiền 1.000.000.000 đồng. Đại diện nguyên đơn rút lại yêu cầu nên Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết yêu cầu trên đối với ông Nguyễn Thanh T1.

- Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Nguyễn Thị Ngọc B trả số tiền 1.000.000.000 đồng.

Nhận thấy: Nguyên đơn khởi kiện và cung cấp chứng cứ cho yêu cầu khởi kiện là Hợp đồng chuyển nhượng và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các chứng cứ có liên quan. Theo đó, ngày 28/3/2022 bà Nguyễn Thị Ngọc C (Bên A) chuyển nhượng ông Nguyễn Thanh T1 (bên B) thửa đất số 55, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại đường số A, KDC V, khu vực 3, C, phường C, Q. N, TP ., công chứng tại Văn phòng C1. (Chiếu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS05902 do Sở tài nguyên và môi trường thành phố c cấp ngày 20/11/2017). Giá chuyển nhượng là: 26.000.000.000 đồng. Phương thức thanh toán: tiền mặt/ chuyển khoản, trả thành 03 đợt:

- Đợt 1: Bên B đã đặt cọc trước cho bên A số tiền 4.000.000.000 đồng vào ngày 15/3/2022.

- Đợt 2 và Đ 3: Các bên đã thỏa thuận và thực hiện xong theo Hợp đồng và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung nên không tranh chấp.

Tuy nhiên, đối với đợt thanh toán đợt 1, bà C cho rằng ngày 15/3/2022, ông T1 chuyển trả số tiền đặt cọc 4.000.000.000 đồng cho bà thông qua tài khoản của bà Nguyễn Thị Ngọc B nhưng bà B chỉ trả cho bà C số tiền 3.000.000.000 đồng, còn nợ bà C số tiền 1.000.000.000 đồng. Hai bên khi giao nhận tiền không lập biên bản giao nhận. Bà B cho rằng ông T1 chỉ chuyển cho bà B số tiền 3.000.000.000 đồng là không đúng nên khởi kiện.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho ông T1 và bà B tham gia hòa giải và tham gia các phiên tòa nhưng ông bà đều vắng mặt nên Tòa án không có ý kiến gì của ông bà gửi cho Tòa án. Do đó, Tòa án căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ giải quyết theo quy định.

Xét thấy, theo sổ phụ tài khoản sao kê tại Ngân hàng S - Chi nhánh C2 đối với tài khoản số: 070027887439 của bà Nguyễn Thị Ngọc B thể hiện: “Ngày 15/03/2022, Nguyễn Thanh T1 đặt cọc mua nhà và tài sản trên đất của bà Nguyễn Thị Ngọc C số thửa 55, TBĐ.16 đường số A KDC V, Cồn khương, DT: 900m2...số tiền 4.000.000.000 đồng”. Cùng ngày, bà Nguyễn Thị Ngọc B rút tiền mặt 2 lần gồm: 101.000.000 đồng và 3.900.000.000 đồng. Tổng cộng: 4.001.000.000 đồng.

Từ đó cho thấy, ông T1 đã chuyển trả tiền cọc mua nhà và tài sản trên đất cho bà C với số tiền 4.000.000.000 đồng thông qua số tài khoản nêu trên của bà Nguyễn Thị Ngọc B là có căn cứ và phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn.

Mặc dù giữa bà C và bà B khi giao nhận tiền không có lập biên bản giao nhận nhưng bà C thừa nhận đã nhận của bà B số tiền 3.000.000.000 đồng nên bà B còn nợ bà C số tiền 1.000.000.000 đồng là phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ.

- Đối với yêu cầu tính lãi 10%/năm trên số tiền 1.000.000.000 đồng từ ngày khởi kiện (09/12/2022) cho đến ngày xét xử sơ thm (11/7/2023) và lãi phát sinh cho đến khi thanh toán xong nợ.

Xét thấy, các đương sự xác lập giao dịch và thực hiện giao dịch với nhau không có thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nên việc nguyên đơn yêu cầu tính lãi chậm thực hiện nghĩa vụ từ ngày nguyên đơn có đơn khởi kiện đến ngày xét xử sơ thẩm và cho đến khi thanh toán xong nợ với mức lãi suất 10%/năm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 nên có cơ sở chấp nhận.

Cụ thể: Số tiền lãi đối với số tiền 1.000.000.000 đồng tạm tính từ ngày 09/12/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm (11/7/2023) là: 07 tháng 02 ngày x 1.000.000.000 đồng x 0.83% = 58.653.000 đồng.

Từ những chứng cứ và phân tích nêu trên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nên buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C tổng số tiền: 1.058.653.000 đồng (Trong đó: nợ gốc là: 1.000.000.000 đồng và nợ lãi tạm tính đến ngày 11/7/2023 là 58.653.000 đồng).

[3] Về án phí dân sự sơ thm:

- Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B phải chịu 43.759.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C được nhận lại số tiền 21.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000414 ngày 13/12/2022 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều.

Do đó, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1] Căn cứ vào: - Khoản 3 Điều 26, Điểm b khoản 1 Điều 35, Điều 97, Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2] Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C.

Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C tổng số tiền: 1.058.653.000 đồng (Trong đó: nợ gốc: 1.000.000.000 đồng và nợ lãi tạm tính đến ngày 11/7/2023: 58.653.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh T1 về việc cùng có trách nhiệm liên đới với bà Nguyễn Thị Ngọc B trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc C số tiền 1.000.000.000 đồng.

- Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 16/QĐ-BPKCTT ngày 14/12/2022 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều cho đến khi thi hành án xong.

- Về án phí dân sự sơ thm: + Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc B phải chịu 43.759.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

+ Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc C được nhận lại số tiền 21.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000414 ngày 13/12/2022 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản số 143/2023/DS-ST

Số hiệu:143/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:11/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về