TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 163/2023/DS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 145/2022/TLST-DS ngày 26/7/2022 về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”, Tho Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 167/2023/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Thái Thị Thu H, sinh năm 1965, địa chỉ: Khu phố A, phường B, thị xã T, tỉnh T; Có mặt.
Bị đơn: Ông Phạm Văn U, sinh năm 1963; địa chỉ: Ấp V, xã H, huyện Dương Minh Châu, tỉnh T; Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị Th, sinh năm 1963, địa chỉ: Ấp V, xã H, huyện Dương Minh Châu, tỉnh T; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tho đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thái Thị Thu H trình bày: Vào năm 2019, bà có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn Lợi, thửa đất 591, diện tích 999m2, tờ bản đồ số 52, tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T; ông Phạm Văn U, bà Phan Thị Th nhận chuyển nhượng thửa đất song song với thửa đất của bà là thửa 592, diện tích 910m2, tờ bản đồ số 52, tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T. Hai thửa đất trên đã được cán bộ đo đạc thuộc Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh T đo đạc, trồng trụ ranh rõ ràng khi ông Lợi làm thủ tục tách thửa đất. Bà và vợ chồng ông U, bà Th đều đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 18/4/2019. Sau đó, ông Lợi tiếp tục chuyển nhượng cho bà thửa đất tiếp giáp mặt hậu thửa 591, thửa 592, là thửa đất số 540, diện tích 1.120m2, tờ bản đồ số 52, tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T, diện tích đất này cũng đã được cán bộ đo đạc thuộc Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh T đo đạc, trồng trụ ranh rõ ràng, bà đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16/01/2020. Năm 2021, bà phát hiện ông U, bà Th xây dựng hàng rào lưới kẽm B40 lấn sang thửa đất 540 của bà, bà yêu cầu ông U, bà Th xây dựng đúng ranh đất nhưng ông U, bà Th không đồng ý mà tiếp tục xây dựng thành hiện trạng như hiện nay, từ đó xảy ra tranh chấp. Nay bà yêu cầu ông U, bà Th di chuyển hàng rào lưới kẽm B40 để trả lại cho bà diện tích đất đo đạc thực tế là 64,5m2.
Bị đơn ông Phạm Văn U trình bày: Vào năm 2018, vợ chồng ông có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn Lợi, thửa 592, diện tích 910m2, tờ bản đồ số 52, tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T. Sau đó vài ngày bà H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn Lợi phần đất tiếp giáp mặt hậu của thửa đất 592 của ông. Hiện ông đã xây dựng hàng rào lưới kẽm B40, có xây chân tường xung quanh đất. Ông đã xây dựng hàng rào lưới kẽm B40 đúng và đủ diện tích đất ông đã nhận chuyển nhượng của ông Lợi. Nay ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Th trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông Phạm Văn U, bà có cùng nguyện vọng với ông U.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T:
1. Việc tuân Tho pháp luật tố tụng: Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục Tho quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn; Các đương sự đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự. Vụ án không có vi phạm tố tụng.
2. Việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 166, Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015 Điều 166 Luật Đất đai 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thái Thị Thu H “Tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất” đối với ông Phạm Văn U và bà Phan Thị Th. Buộc ông U và bà Th phải tháo dỡ, di dời hàng rào lưới B40 trả lại bà H diện tích 55,8m2 thuộc thửa 540, tờ bản đồ số 52, tọa lạc ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, đất do bà Thái Thị Thu H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thái Thị Thu H về việc yêu cầu ông Phạm Văn U và bà Phan Thị Th trả lại diện tích 8,7m2 thuộc thửa 592 tờ bản đồ số 52, tọa lạc ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, đất do ông Phạm Văn U và bà Phan Thị Th đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Về án phí: Các đương sự chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các đương sự trong vụ án đều có mặt tại phiên tòa sơ thẩm và trong quá trình giải quyết vụ án tất cả các đương sự đều thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp: Qua đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ tài sản tranh chấp như sau: Phần đất bà H tranh chấp với ông U, bà Th có diện tích 64,5 m2, trong thửa 540 (55,8m2), trong thửa 592 (8,1m2), trong thửa 591 (0,6m2) tờ bản đồ 52 (BĐ 2005), tọa lạc tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T, có các cạnh như sau: Hướng đông giáp đất ông U, bà Th dài 1,59m + 18,42m; Hướng tây giáp đất bà H dài 10,56m + 9,54m; Hướng nam giáp đất bà H dài 1,82m + 1,23m + 0,37m, hướng bắc giáp đất bà H dài 2,66m + 0,51m (có sơ đồ hiện trạng sử dụng đất kèm Tho). Thửa đất 540 bà H đã được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận ngày 16/01/2020; thửa đất 591 bà H đã được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận ngày 18/4/2019; thửa 592 ông U, bà Th đã được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận ngày 18/4/2019. Xét nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn Lợi, ông Lợi đã yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh T tiến hành đo đạc, trồng trụ ranh giữa các thửa đất. Trong quá trình sử dụng đất ông U, bà Th đã tiến hành xây dựng hàng rào lưới kẽm B40 không đúng với ranh hiện trạng mà cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh T đã tiến hành đo đạc, trồng trụ ranh. Căn cứ vào kết quả đo đạc cho thấy ông U xây dựng rào B40 lấn qua thửa 540 của bà H diện tích 55,8m2. Qua xác minh, cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh T – chi nhánh T là người trực tiếp đo đạc, cắm ranh cho các thửa đất của bà H, ông U xác định: Ông U xây hàng rào lưới kẽm B40 là không đúng ranh hiện trạng, không đúng ranh đất mà cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai đất đai đo đạc cắm trụ trước đây. Mặt hậu đất ông U xây hàng rào đã lấn sang đất của bà H (thửa 540), hiện trạng hàng cọc xi măng cắm ranh vẫn còn thuộc trong phạm vi ranh đất của thửa đất 540 bà bà H đã nhận chuyển nhượng từ ông Lợi. Ngoài ra, hai thửa đất 591, 592 bà H và vợ chồng ông U, bà Th nhận chuyển nhượng của ông Lợi cùng thời điểm, mặt hậu của thửa đất 591, 592 đã có hàng cọc ranh. Như vậy, có cơ sở chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc ông U, bà Th trả lại quyền sử dụng đất diện tích 55,8m2 thuộc thửa 540, tờ bản đồ số 52, tọa lạc ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T.
[3] Đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tho quy định tại các Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông U, bà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với một phần yêu cầu khởi kiện của bà H được Tòa án chấp nhận; Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với một phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.
[5] Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu) đồng, bà H đã nộp tạm ứng, do yêu cầu khởi kiện của bà H được chấp nhận một phần nên bà H phải chịu chi phí tố tụng tương ứng với phần không được chấp nhận (3.372.000 đồng); ông U, bà Th phải chịu một phần chi phí tố tụng tương ứng với một phần yêu cầu khởi kiện của bà H được chấp nhận (21.628.000 đồng) là phù hợp với quy định tại Điều 157, Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà H đã nộp tạm ứng nên ông U, bà Th có nghĩa vụ phải hoàn trả chi phí trên cho bà H.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 166, 203 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 166, 175 Bộ luật Dân sự; các Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thái Thị Thu H tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất đối với ông Phạm Văn U, bà Phan Thị Th.
Buộc ông Phạm Văn U, bà Phan Thị Th có nghĩa vụ phải di chuyển hàng rào lưới kẽm B40 dài 1,23m + 1,82m + 10,56m + 9,54m + 2,66m, cao 2m trên đất để trả lại cho bà Thái Thị Thu H quyền sử dụng đất diện tích 55,8 m2, trong thửa 540 tờ bản đồ 52 (BĐ 2005), tọa lạc tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T, loại đất: Đất ở nông thôn (ONT) 17,4m2 + đất trồng cây lâu năm (CLN), có tứ cận như sau: Hướng đông giáp đất ông U, bà Th dài 1,61m + 18,39m; Hướng tây giáp đất bà H dài 10,56m + 9,54m; Hướng nam giáp đất bà H dài 1,82m + 1,23m; Hướng bắc giáp đất bà H dài 2,66m. (Có sơ đồ hiện trạng sử dụng đất kèm Tho).
Nếu người có tài sản không di chuyển tài sản hoặc tài sản không thể di chuyển được thì tài sản đó phải bị tháo dỡ. Trường hợp người có tài sản không tự nguyện di chuyển tài sản thì bị xử lý tài sản Tho quy định tại Điều 113 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thái Thị Thu H tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất đối với ông Phạm Văn U, bà Phan Thị Th đối với quyền sử dụng đất diện tích đất 8,7m2 gồm: Trong thửa 592 (8,1m2), trong thửa 591 (0,6m2) tờ bản đồ 52 (BĐ 2005), tọa lạc tại ấp Sóc Lào, xã Đôn Thuận, thị xã T, tỉnh T, có tứ cận như sau: Hướng đông giáp đất ông U, bà Th dài 1,59m + 18,42m; Hướng tây giáp đất bà H (diện tích đất tranh chấp) dài 1,61m + 18,39m; Hướng nam giáp đất bà H dài 0,37m; Hướng bắc giáp đất bà H dài 0,51m (có sơ đồ hiện trạng sử dụng đất kèm Tho).
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, Tho biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026722 ngày 26/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T. Bà H đã nộp đủ.
- Ông U, bà Th phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Chi phí tố tụng:
- Bà H phải chịu 3.372.000 (Ba triệu ba trăm bảy mươi hai nghìn) đồng chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Ghi nhận bà H đã nộp đủ.
- Ông U, bà Th có nghĩa vụ phải hoàn trả cho bà H 21.628.000 (Hai mươi mốt triệu sáu trăm hai mươi tám nghìn) đồng chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
5. Quyền kháng cáo: Bà H, ông U, bà Th được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất số 163/2023/DS-ST
Số hiệu: | 163/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về