Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản, hợp đồng vay tài sản số 14/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 14/2022/DS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN, HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2022/TLST- DS ngày 14 tháng 02 năm 2022, về việc “Tranh chấp về đòi lại tài sản; tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 531/2022/QĐST-DS ngày 20 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Hồng H, sinh năm 1976;

Địa chỉ: 105, đường Phan Trung, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần H, sinh năm 1990; (có mặt) Địa chỉ: 240, đường 30/4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Theo hợp đồng ủy quyền ngày 18/12/2021.

2. Bị đơn:

- Ông Sous S, sinh năm 1970; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Sông M, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Cây X, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo phát luật: Ông Sous S - Chức danh: Giám đốc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/12/2021, ngày 10/02/2022 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Đoàn Thị Hồng H do ông Trần H, là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ông Sous S là chủ sử dụng quyền sử dụng thửa đất số 163, tờ bản đồ số 75, tọa lạc tại xã Tân An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai; đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CI 502458 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 07/6/2017.

Ngày 23/11/2018, ông Sous S ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Đoàn Thị Hồng H phần đất có diện tích là 2687,6m2 thuộc một phần thửa đất số 163, tờ bản đồ số 75, với giá chuyển nhượng là 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng). Bà H đã thanh toán đầy đủ số tiền 8,9 tỷ đồng cho ông Sous S, ông Sous S xác nhận đã nhận đủ số tiền này và cam kết hoàn tất thủ tục sang tên chuyển quyền diện tích đất này cho bà H trong vòng 06 tháng tính từ ngày ký hợp đồng.

Ngày 11/10/2021, bà H và ông Sous S đã ký Biên bản thỏa thuận công nợ với nội dung hai bên cùng thống nhất hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 23/11/2018, về việc chuyển nhượng 2687,6m2 thuộc một phần thửa đất số 163, tờ bản đồ số 75, do trọn thửa đất này ông Sous S đã chuyển nhượng cho người khác nên hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện; ông Sous S có trách nhiệm hoàn trả cho bà H số tiền chuyển nhượng đất đã nhận là 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng).

Đồng thời tại Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021, ông Sous S cũng xác nhận còn nợ bà H số tiền 1.446.000.000 (Một tỷ bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng) là tiền mà ông Sous S - Giám đốc công ty đã mượn để bổ sung vốn kinh doanh và đáo hạn ngân hàng cho Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S.

Theo đó, ông Sous S có trách nhiệm hoàn trả cho bà H cả hai khoản tiền trên là 10.346.000.000đ (Mười tỷ ba trăm bốn mươi sáu triệu đồng). Trong trường hợp ông Sous S không có khả năng thanh toán thì Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S cam kết chịu trách nhiệm liên đới trong việc thanh toán toàn bộ số tiền 10.346.000.000 đồng cho bà H.

Bà H đã nhiều lần yêu cầu ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S thanh toán số tiền trên, nhưng phía ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không có thiện chí giải quyết.

Vì vậy, bà Đoàn Thị Hồng H yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Buộc ông Sous S phải có trách nhiệm trả lại cho bà H số tiền 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng);

- Buộc Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải có trách nhiệm trả lại cho bà H số tiền 1.446.000.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng);

Trong trường hợp ông Sous S không có khả năng thanh toán thì Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S cam kết chịu trách nhiệm liên đới trong việc thanh toán toàn bộ số tiền 10.346.000.000 đồng cho bà H theo Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021.

Ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải chịu tiền lãi phát sinh trong giai đoạn thi hành án.

* Bị đơn Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S do ông Sous S là người đại diện theo pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng vắng mặt nên không văn bản trình bày ý kiến.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; ông Trần Hổ người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; bị đơn ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải trả lại cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền 10.346.000.000 đồng theo yêu cầu và tiền lãi suất chậm trả trong giai đoạn thi hành án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Đoàn Thị Hồng H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về việc đòi lại tài sản và cho vay tiền đối với ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S; nơi cư trú của ông Sous S tại nhà không số, ấp Sông M, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nơi làm việc tại Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S, địa chỉ ấp Cây X, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Bà H lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là nơi làm việc và là nơi bị đơn Công ty có trụ sở. Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp về đòi lại tài sản; tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Bà H ủy quyền cho ông Trần H, theo hợp đồng ủy quyền ngày 18/12/2021. Việc ủy quyền được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Bị đơn ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không có yêu cầu phản tố và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia quá trình giải quyết vụ án, nhưng vắng mặt từ thời điểm Tòa án thông báo thụ lý vụ án cho đến thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử vụ án, nên không có ý kiến trình bày. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án số: 18/TB-TLVA ngày 14/02/2022; Giấy triệu tập số: 18/GTT ngày 14/02/2022; Bản sao Đơn khởi kiện đề ngày 10/02/2022; Bản sao Biên bản thỏa thuận công nợ lập ngày 11/10/2021, giữa bà Đoàn Thị Hồng H với ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S; Thông báo yêu cầu giao nộp tài liệu, chứng cứ số: 01/TB-TA ngày 04/3/2022; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ số: 03/TB-TA ngày 20/4/2022; nhưng cho đến nay ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không phản đối những tình tiết, tài liệu, chứng cứ mà bên bà H đưa ra, cũng như do Tòa án thu thập được và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về chứng cứ của vụ án: Tòa án đã đảm bảo việc công khai toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ vụ án theo quy định tại các Điều 208, 209, 210 và 211 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn cam kết không có tài liệu, chứng cứ nào khác và tại phiên tòa cũng không bổ sung thêm chứng cứ nào khác.

[2] Về nội dung tranh chấp: Theo biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021, ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S có trách nhiệm hoàn trả cho bà H gồm hai khoản tiền là 10.346.000.000đ (Mười tỷ ba trăm bốn mươi sáu triệu đồng). Bà H đã thông báo yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền kể từ ngày 15/12/2021 đến ngày 30/12/2021, và nhiều lần yêu cầu ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải trả số tiền trên, nhưng phía ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không có thiện chí giải quyết. Sự việc phát sinh tranh chấp nên bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Hồng H là có căn cứ, bởi lẽ: Theo biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021, thể hiện tổng số tiền ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S có trách nhiệm trả lại cho bà H là 10.346.000.000đ (Mười tỷ ba trăm bốn mươi sáu triệu đồng), trong đó:

- Ông Sous S phải có trách nhiệm trả lại cho bà H số tiền 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng) đã nhận theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 23/11/2018, mà hai bên thống nhất hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng này.

- Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải có trách nhiệm trả lại cho bà H số tiền 1.446.000.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng), là tiền mà ông Sous S - Giám đốc Công ty đã mượn để bổ sung vốn kinh doanh và đáo hạn ngân hàng cho Công ty.

- Trong trường hợp ông Sous S không có khả năng thanh toán thì Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S cam kết chịu trách nhiệm liên đới trong việc thanh toán toàn bộ số tiền 10.346.000.000 đồng cho bà H theo Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021.

Biên bản thỏa thuận công nợ lập ngày 11/10/2021, có đầy đủ chữ ký, chữ viết của bà H, ông Sous S và dấu mộc của Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S do ông Sous S - Giám đốc ký, đóng dấu.

Như vậy, có đủ cơ sở xác định ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải có trách nhiệm trả lại cho bà H số tiền 10.346.000.000 đồng. Các bên có lập Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021, nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên cần phải thực hiện theo nội dung đã thỏa thuận, cam kết. Ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không trả tiền đúng như cam kết. Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải trả lại tiền và trả nợ vay gốc là có cơ sở, đúng với quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ và đã thông báo đầy đủ kết quả thu thập được tài liệu, chứng cứ cho các đương sự biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S không có ý kiến phản hồi, cố tình vắng mặt nên xem như đã từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình là mặc nhiên thừa nhận số tiền trên.

[4] Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại các Điều 166, Điều 275, Điều 288, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự, nhận thấy việc bà Đoàn Thị Hồng H khởi kiện tranh chấp về đòi lại tài sản và tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, giữa bà H với ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S là có cơ sở để chấp nhận.

- Buộc ông Sous S phải có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng).

- Buộc Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền 1.446.000.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng);

- Trường hợp ông Sous S không có khả năng thanh toán thì Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc trả lại toàn bộ số tiền 10.346.000.000 đồng (8.900.000.000đ + 1.446.000.000đ) cho bà H theo Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021.

Ông Sous S và Công ty TNHH Một thành viên gỗ Thanh S phải chịu tiền lãi phát sinh chậm trả trong giai đoạn thi hành án theo điểm b khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, nên bị đơn ông Sous S phải nộp án phí số tiền là 116.900.000 đồng (án phí có giá ngạch của số tiền 8.900.000.000 đồng), Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải nộp án phí số tiền 55.380.000 đồng (án phí có giá ngạch của số tiền 1.446.000.000 đồng). Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn bà Đoàn Thị Hồng H do nguyên đơn không phải chịu án phí.

[6] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 207, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 243, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sựCăn cứ vào Điều 166, Điều 275, Điều 288, Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đoàn Thị Hồng H.

- Buộc ông Sous S phải có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền 8.900.000.000đ (Tám tỷ chín trăm triệu đồng).

- Buộc Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền 1.446.000.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi sáu triệu đồng);

- Trường hợp ông Sous S không có khả năng thanh toán thì Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc trả lại toàn bộ số tiền 10.346.000.000 đồng cho bà Đoàn Thị Hồng H theo Biên bản thỏa thuận công nợ ngày 11/10/2021.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Về án phí DS-ST: Ông Sous S phải nộp tiền án phí là 116.900.000đ (Một trăm mười sáu triệu chín trăm ngàn đồng). Công ty TNHH Một thành viên Gỗ Thanh S phải nộp tiền án phí là 55.380.000đ (Năm mươi lăm triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng). Hoàn trả lại cho bà Đoàn Thị Hồng H số tiền tạm ứng án phí 27.690.000đ (Hai mươi bảy triệu sáu trăm chín mươi ngàn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004031 ngày 11/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn không có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại tài sản, hợp đồng vay tài sản số 14/2022/DS-ST

Số hiệu:14/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về