Bản án về tranh chấp đòi lại quyền khác đối với tài sản số 08/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 08/2022/DS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2021/TLST- DS ngày 13 tháng 10 năm 2021 về việc tranh chấp đòi lại quyền khác đối với tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lương Cao K; địa chỉ: Thôn 4, xã T, huyện V, thành phố H; vắng mặt.

- Bị đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam; địa chỉ trụ sở: Số 02 LH, phường TC, quận BĐ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Ngô Văn C; địa chỉ: Thôn NA, xã TC, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; là người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn (Theo Văn bản ủy quyền ngày 12-11-2021 của Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh NA Đông Hải Phòng); vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị V; ĐKNKTT: Thôn 9, xã T, huyện V, thành phố H; hiện đang thi hành án phạt tù tại Trại giam XN, huyện TN, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

2. Bà Đỗ Thị Nh; địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 25-6-2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lương Cao K trình bày:

Ngày 20-01-2010, ông Lương Cao K có vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh NA Đông Hải Phòng (viết tắt là Ngân hàng) số tiền 200.000.000 đồng. Tài sản thế chấp để bảo đảm cho khoản vay là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K496239 do Uỷ ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 16-9-1997 mang tên ông Lương Cao Lợi (bố đẻ của ông Lương Cao K). Ngày 10-01-2011, ông Khởi đã hoàn trả đủ số tiền nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng, được Ngân hàng xác nhận bằng chứng từ trả hết nợ nhưng không trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi với lý do, có người đã mạo danh sử dụng giấy tờ cá nhân mang tên bà Đỗ Thị Nh ghép với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi lập hồ sơ giả để vay tiền Ngân hàng. Ngày 07-6-2018, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng đưa bà Lê Thị V ra xét xử, ông Khởi mới biết bà Vững là người đã mạo danh lập hồ sơ giả, đứng tên người vay là bà Nhinh và dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lợi để bảo đảm. Việc bà Vững lập hồ sơ giả để đứng tên bà Nhinh vay tiền Ngân hàng và dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lương Cao Lợi thế chấp để bảo đảm, ông Khởi và gia đình không biết và không được hưởng lợi gì từ khoản tiền vay này. Sau khi Bản án hình sự sơ thẩm số: 47/2018/HS-ST ngày 07-6-2018 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật, ông Khởi đã nhiều lần liên hệ với Ngân hàng để nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Ngân hàng không trả. Nên, ông Khởi đã khởi kiện yêu cầu Ngân hàng phải trả lại ông giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi.

Tại Công văn số 174/NHNoNNA-KHKD đề ngày 12-11-2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:

Hiện nay Ngân hàng đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K496239 do UBND huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 16-9-1997 mang tên ông Lương Cao Lợi là tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay của bà Đỗ Thị Nh theo Hợp đồng tín dụng số 2118-LAV/2012 ngày 23-3-2012 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 96 ngày 23-3-2012. Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp nêu trên đều do bà Lê Thị V mạo danh người vay và người thế chấp tài sản để chiếm đoạt tiền của Ngân hàng. Tuy nhiên, đến nay bà Vững chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo yêu cầu tại Bản án số: 47/2018/HS-ST ngày 07-6-2018 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng khoản tiền vay của bà Nhinh. Cho nên, Ngân hàng không trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi.

Tại Bản tự khai đề ngày 13-01-2022, có xác nhận của Ban Giám thị Trại giam XN, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị V trình bày:

Bà Vững là cán bộ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh NA Đông Hải Phòng từ năm 1980 đến tháng 11 năm 2012. Vào các năm 2011, 2012 bà Vững đã có hành vi ký giả chữ ký, mạo danh người khác lập giả hồ sơ vay vốn chiếm đoạt tiền của Ngân hàng. Cụ thể, bà Vững đã sử dụng giấy tờ cá nhân mang tên bà Đỗ Thị Nh ghép với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi để lập hồ sơ đứng tên người vay là bà Nhinh vay số tiền 400.000.000 đồng của Ngân hàng. Tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi. Hành vi gian dối chiếm đoạt tiền Ngân hàng của bà Vững đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và buộc phải bồi thường cho Ngân hàng số tiền đã chiếm đoạt. Nay, bà Vững đề nghị Ngân hàng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi.

Tại Biên bản lấy lời khai của đương sự đề ngày 17-02-2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Nh trình bày:

Năm 2011, bà Nhinh có làm hồ sơ vay tiền của Ngân hàng nhưng đã thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc và tiền nợ lãi cho Ngân hàng. Việc bà Lê Thị V lập hồ sơ giả đứng tên người vay mang tên bà Nhinh để vay Ngân hàng số tiền 400.000.000 đồng và dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi để bảo đảm, bà Nhinh không biết và không được hưởng lợi gì từ khoản tiền vay này. Hành vi chiếm đoạt tiền Ngân hàng của bà Vững đã bị Toà án xét xử theo quy định của pháp luật. Nên, bà Nhinh đề nghị Ngân hàng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền giải quyết vụ án; về quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết; về tư cách tham gia tố tụng; về việc thu thập chứng cứ; về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát; việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự tại phiên tòa đã được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 163, 164, 166, 688 Bộ luật Dân sự; các điều 26, 35, 39, 40, 147, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Ngân hàng phải trả lại ông Lương Cao K giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi. Về án phí, bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, đây là tranh chấp dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có trụ sở chi nhánh tại thôn NA, xã TC, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyên đơn ông Lương Cao K, bị đơn Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị V và bà Đỗ Thị Nh đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Về quyền khởi kiện vụ án của nguyên đơn: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng, ông Lương Cao Lợi là người đứng tên quyền sử dụng 440 m2 đất, thửa đất số 191, tờ bản đồ số 5 tại Thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K496239 do UBND huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 16-9-1997. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Lợi hiện nay do Ngân hàng đang quản lý theo Hợp đồng tín dụng số 2118-LAV/2012 ngày 23-3-2012 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 96 ngày 23-3-2012. Ông Lợi có vợ là bà Phạm Thị Vân. Ông Lợi và bà Vân có bốn người con gồm: Lương Thị Hạnh, Lương Cao Khải, Lương Cao K, Lương Thị Hiền và không có con riêng hay người con nào khác. Ông Lợi chết năm 2002, không để lại di chúc. Bà Vân và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lợi đã uỷ quyền cho ông Khởi khởi kiện Ngân hàng để lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi. Như vậy, việc ông Lương Cao K khởi kiện vụ án là có căn cứ và phù hợp Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 20-01-2010, ông Lương Cao K có vay Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng. Tài sản thế chấp để bảo đảm cho khoản vay là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K496239 do UBND huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 16-9-1997 mang tên ông Lương Cao Lợi. Ngày 10-01- 2011, ông Khởi đã hoàn trả đủ số tiền nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng, được Ngân hàng xác nhận bằng chứng từ trả hết nợ. Tuy nhiên, Ngân hàng không trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi với lý do, bà Lê Thị V đã tự ý sử dụng giấy tờ cá nhân của bà Đỗ Thị Nh ghép với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lợi để lập hồ sơ vay vốn giả danh bà Nhinh vay 400.000.000 đồng của Ngân hàng. Tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lương Cao Lợi. Ngày 26-3-2012, hồ sơ khoản vay được giải ngân. Việc bà Vững lập hồ sơ giả danh bà Nhinh vay tiền Ngân hàng và dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lợi để bảo đảm, gia đình ông Lợi không biết và không được hưởng lợi gì từ khoản tiền vay này nên gia đình ông Lợi không có lỗi. Hành vi lập hồ sơ giả danh bà Nhinh vay tiền Ngân hàng của bà Vững đã bị Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng đưa ra xét xử. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 47/2018/HS- ST ngày 07-6-2018 của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xử phạt bà Lê Thị V tù chung thân về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó có hành vi lập hồ sơ giả danh bà Nhinh vay 400.000.000 đồng và buộc bà Vững có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ khoản tiền nợ gốc 400.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh; đồng thời kiến nghị Ngân hàng trả lại các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ liên quan đến nhân thân của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, trong đó có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi. Như vậy, cần xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lương Cao Lợi không còn là tài sản bảo đảm cho khoản tiền vay đứng tên bà Nhinh. Cho nên, việc Ngân hàng không đồng ý trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Khởi với lý do, bà Vững chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng khoản tiền vay của bà Nhinh là không có căn cứ. Đối với yêu cầu của ông Khởi, buộc Ngân hàng phải trả lại cho ông giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có căn cứ và phù hợp quy định tại các điều 163, 164, 166 Bộ luật Dân sự nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 163, Điều 164, Điều 166, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 1 Điều 40, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Buộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh NA Đông Hải Phòng) phải trả lại cho ông Lương Cao K Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K496239 do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 16-9-1997 mang tên ông Lương Cao Lợi.

2. Về án phí: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại quyền khác đối với tài sản số 08/2022/DS-ST

Số hiệu:08/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về