Bản án về tranh chấp đòi lại đất cho ở nhờ số 483/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 483/2023/DS-PT NGÀY 06/12/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI ĐẤT CHO Ở NHỜ

Trong các ngày 04, 05 và 06 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 367/2023/TLPT-DS ngày 11 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “đòi lại đất cho ở nhờ”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 75/2023/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều bị bị đơn ông Nguyễn Tấn N kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 476/2023/QĐPT-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1954; địa chỉ: A đường C, khu V, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt) Đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Nguyễn Tuấn T, sinh năm 1984; địa chỉ: A đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn N, sinh năm: 1975; địa chỉ: 1 đường C, khu V, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

3.1 Bà Huỳnh Thị Mỹ K, sinh năm: 1986; địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền của bà K là ông Nguyễn Tấn N, sinh năm 1975; (có mặt)

3.2 Ông Nguyễn Tấn H, sinh năm: 1980; địa chỉ: 1 đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt) Đại diện hợp pháp của ông H là ông Nguyễn Tấn N, sinh năm 1975. (có mặt)

3.3 Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm: 1950; địa chỉ: 1 đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Tấn N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2020 và quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ông Nguyễn Tấn T1 là chồng của bà Nguyễn Thị B, vào năm 2006 ông T1 có cho ông Nguyễn Tấn P là cha của ông Nguyễn Tấn N ở nhờ trên phần của gia đình bà B tại thửa 428, tờ bản đồ số 20, phần đất tọa lạc tại đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Đất thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01632.QSDĐ do Ủy ban nhân dân quận N cấp cho ông Nguyễn Tấn T1 và bà Nguyễn Thị B ngày 11/01/2007, chỉnh lý biến động sang tên bà Nguyễn Thị B ngày 13/03/2009.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, phần đất tranh chấp được thể hiện tại thửa số 4281 diện tích 53,8 m2 (theo bản trích đo địa chính số 12/TTKTTNMT ngày 10/02/2022 của trung tâm KI - Sở tài nguyên và môi trường thành phố C) nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại phần đất tranh chấp có diện tích 53,8 m2, trong quá trình sử dụng phần đất tranh chấp, ông P có xây dựng công trình và vật kiến trúc trên đất. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại phần đất tranh chấp đồng thời tháo dỡ và di dời vật kiến trúc trên đất. Nguyên đơn đồng ý cho bị đơn và người liên quan trong thời gian 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực phải thực hiện việc di dời.

Bị đơn, đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà K, ông H- ông Nguyễn Tấn N trình bày:

Phần đất bị đơn sử dụng có diện tích ngang 6m dài 16m, có nguồn gốc là của bà nội bị đơn - bà Lê Thị H1, bà H1 cho ông P phần đất này từ năm 1994, ông P sử dụng đến khi mất, hiện trạng phần đất khi được tặng cho là cái mương, gia đình bị đơn nhiều lần san lắp mặt bằng đến năm 2006 xây nhà và sử dụng ổn định không có tranh chấp. Quá trình sử dụng đất ông P không kê khai và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì là đất của ông bà cho. Việc bà H1 tặng cho ông P phần đất trên không có lập thành văn bản, chỉ là lời nói nhưng có các cô, chú của bị đơn làm chứng việc tặng cho. Sau khi ông P mất bị đơn, bà K, ông H cùng cư ngụ trên phần đất tranh chấp. Theo theo bản trích đo địa chính số 12/TTKTTNMT ngày 10/02/2022 của trung tâm K1 - Sở tài nguyên và môi trường thành phố c xác định phần đất tranh chấp là thửa số 4281 diện tích 53,8 m2, trên phần đất có công trình và vật kiến trúc có diện tích xây dựng 55,74m2.

Hiện tại trên phần đất tranh chấp có bị đơn và bà K cư ngụ. Phần đất của bà H1 cho ông P là di sản của H1 để lại nên bị đơn không đồng ý yêu cầu trả lại đất nguyên đơn. Gia đình bị đơn đã ở trên phần đất này ổn định trong nhiều năm, không có tranh chấp nên bị đơn yêu cầu Tòa án công nhận phần đất cho bị đơn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 75/2023/DS - ST ngày 15 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đã tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

Buộc ông Nguyễn Tấn N, Bà Huỳnh Thị Mỹ K, ông Nguyễn Tấn H di dời và giao trả cho bà Nguyễn Thị B phần đất tại thửa số 4281 diện tích 53,8 m2 loại đất cây lâu năm thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01632.QSDĐ do Ủy ban nhân dân quận N cấp cho ông Nguyễn Tấn T1 và bà Nguyễn Thị B, chỉnh lý biến động sang tên bà Nguyễn Thị B ngày 13/03/2009 (theo bản trích đo địa chính số 12/TTKTTNMT ngày 10/02/2022 của Trung tâm K1 - Sở T) và công trình, vật kiến trúc trên đất có diện tích xây dựng 55,74m2. Ghi nhận nguyên đơn tự nguyện cho ông N, bà K, ông H thời hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật để thực hiện việc di dời khỏi phần đất tranh chấp.

Bà Nguyễn Thị B có nghĩa vụ trả cho các đồng thừa kế của ông Nguyễn Tấn P1 số tiền 257.251.320đ (hai trăm năm mươi bảy triệu, hai trăm năm mươi mốt nghìn, ba trăm hai mươi đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm; quyền kháng cáo; quyền thi hành án và thời hiệu thi hành án của các bên đương sự.

Ngày 08/6/2023, bị đơn ông Nguyễn Tấn N kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu hủy toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm số 75/2023/DSST ngày 15/5/2023 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, lý do: không thống nhất nội dung của bản án, vì diện tích đất tranh chấp là của bà nội ông cho gia đình ông và ông sử dụng từ năm 1994 không có tranh chấp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo vẫn giữ yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp chứng cứ mới.

Nguyên đơn: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ y bản án sơ thẩm, tuy nhiên có bổ sung ý kiến về việc đồng ý bồi hoàn giá trị tài sản trên đất theo kết quả định giá của Phòng tài chính kế hoạch quận N.

Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử định giá lại phần công trình vật kiến trúc trên đất tranh chấp, đồng thời sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ phát biểu quan điểm:

* Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 * Về việc giải quyết vụ án dân sự: Căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng điều chỉnh lại số tiền nguyên đơn có trách nhiệm phải trả cho bị đơn, đồng thời điều chỉnh lại cách tuyên án về việc công nhận tài sản trên đất cho bà B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Tấn N, theo đơn kháng và lời trình bày của ông N tại phiên tòa cho thấy, bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét định giá lại phần công trình và vật kiến trúc trên đất đồng thời không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất của nguyên đơn, công nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn. Vì theo bị đơn, phần đất này là có nguồn gốc là của bà nội bị đơn đề lại, là di sản chưa chia và cha của bị đơn đã cất nhà từ năm 2006 ở ổn định cho đến nay nên đề nghị được công nhận;

[2] Xét thấy, căn cứ vào Biên bản định giá ngày 26/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều thì trên thửa đất tranh chấp có các công trình vật kiến trúc bao gồm: 01 căn nhà bán kiên cố trệt, máy lợp tole, trần thạch cao nền gạch men, tường riêng. Phần tài sản này Phòng Tài chính kế hoạch quận N đã có Công văn định giá số 319/PTCKH ngày 17/02/2022 xác định giá trị là 123.408.360 đồng. Quá trình thẩm định căn nhà ông N đều có tham gia và ký biên bản. Ngoài ra, căn nhà trên cũng đã được Công ty TNHH Đ tiến hành thẩm định. Theo chứng thư thẩm định gia sổ V050/BĐS/2023/CT.ĐA ngày 21/03/2023 của Công ty TNHH Đ thì căn nhà có giá thị trường là 119.060.640 đồng. Như vậy, phần tài sản trên đất đã được 02 đơn vị có chức năng tiến hành thẩm định và kết quả không có sự chênh lệch lớn, ông N cũng không có ý kiến khiếu nại đối với 02 kết quả này. Theo quy định tại khoản 5 Điều 104 của Bộ luật Tố tụng dân sự: “Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự”. Ông N yêu cầu định giá lại nhưng ông chưa cung cấp được chứng cứ kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nên yêu cầu này của ông không có cơ sở chấp nhận;

[3] Căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ cho thấy nguồn gốc đất tranh chấp trước đây là của bà Lê Thị H1. Sau đó, bà H1 chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị H2. Năm 2004 ông Nguyễn Tấn T1, bà B xác lập quyền sử dụng thông qua việc nhận chuyển nhượng từ bà H2. Ông Tl, bà B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2004, chỉnh lý biến động sang tên bà Nguyễn Thị B ngày 13/03/2009. Hơn nữa, tại phiên tòa, ông N cũng thừa nhận cha ông và gia đình cũng biết rõ việc bà H2 cũng như ông T1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2004, mặc dù không đồng ý nhưng cũng không có ý kiến ngăn cản hay phản đối gì. Năm 2006 khi ông P1 xây dựng nhà ở trên phần đất này cũng biết được quyền sử dụng đất thuộc về ông T1. Ông N cho rằng ông P1 được bà H1 tặng cho quyền sử dụng đất nhưng ông không cung cấp được chứng cứ, chứng minh việc tặng cho giữa bà H1 và ông P1 đối với phần đất tranh chấp. Như vậy, hiện tại về mặt pháp lý quyền sử dụng đất tranh chấp là thuộc về bà B nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông N và gia đình di dời trả lại quyền sử dụng đất cho bà B là có căn cứ. Đồng thời, do đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà B nên yêu cầu của ông N về việc được công nhận phần đất này cũng không được chấp nhận;

[3] Về nghĩa vụ bồi hoàn công trình vật kiến trúc trên đất: Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn đồng ý bồi hoàn cho những người thừa kế ông P1 số tiền 123.408.360 đồng theo công văn định giá số 319/PTCKH ngày 17/02/2022 của Phòng tài chính kế hoạch quận N. Xét thấy, so với kết quả định giá phần công trình và vật kiến trúc trên đất có giá thị trường của Công ty Đ với số tiền 119.060.640 đồng thì việc nguyên đơn đồng ý bồi thường theo Công văn của Phòng T sẽ có lợi cho phía bị đơn và đây cũng là sự tự nguyện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận;

[4] Ngoài ra, như đã nhận định trên khi nguyên đơn nhận lại quyền sử dụng đất thì có nghĩa vụ hoàn lại giá trị tài sản trên đất cho bị đơn, do đó nguyên đơn sẽ được quyền sử dụng đối với tài sản này. Tuy nhiên, trong phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên buộc bị đơn di dời công trình, vật kiến trúc trên đất là chưa đúng nên cần điều chỉnh lại;

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của ông N không được chấp nhận nên ông N phải chịu. Ông N được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001462 ngày 07/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ thành án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 12, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Tấn N.

2. Sửa 01 phần án sơ thẩm số 75/2023/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

2.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B.

- Buộc ông Nguyễn Tấn N, Bà Huỳnh Thị Mỹ K, ông Nguyễn Tấn H di dời và giao trả cho bà Nguyễn Thị B phần đất tại thửa số 4281 diện tích 53,8 m2 loại đất cây lâu năm thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01632.QSDĐ do Ủy ban nhân dân quận N cấp cho ông Nguyễn Tấn T1 và bà Nguyễn Thị B, chỉnh lý biến động sang tên bà Nguyễn Thị B ngày 13/03/2009 (theo bản trích đo địa chính số 12/TTKTTNMT ngày 10/02/2022 của Trung tâm K1 - Sở T).

- Công nhận công trình, vật kiến trúc trên đất tại thửa 4281 theo bản trích đo địa chính số 12/TTKTTNMT ngày 10/02/2022 của Trung tâm K1 - Sở T bao gồm 01 căn nhà bán kiên cố trệt, máy lợp tole, trần thạch cao nền gạch men, tường riêng 01 căn nhà bán kiên cố trệt, máy lợp tole, trần thạch cao nền gạch men, tường riêng có diện tích xây dựng 55,74m2 thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thị B. Ghi nhận nguyên đơn tự nguyện cho ông N, bà K, ông H thời hạn 03 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật để thực hiện việc di dời khỏi phần đất tranh chấp.

- Bà Nguyễn Thị B có nghĩa vụ trả cho các đồng thừa kế của ông Nguyễn Tấn P số tiền 261.599.000 đồng (hai trăm sáu mươi mốt triệu, năm trăm chín mươi chín nghìn đồng đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị B là người cao tuổi nên được miễn án phí.

Bị đơn ông Nguyễn Tấn N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

2.3 Về chi phí tố tụng ở cấp sơ thẩm: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bị đơn ông Nguyễn Tấn N phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 6.200.000 đồng (sáu triệu, hai trăm nghìn đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) chi phí định giá tài sản.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông N phải chịu. Ông N được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0001462 ngày 07/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ thành án phí.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đòi lại đất cho ở nhờ số 483/2023/DS-PT

Số hiệu:483/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về