TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 91/2023/DS-PT NGÀY 31/07/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 84/2022/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022, về: “Tranh chấp đất đai”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 90/2023/QĐPT-DS ngày 08 tháng ố năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 83/2023/QĐ-PT ngày 18/7/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1982; địa chỉ: số C đường A, phường T, Quận I, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Võ Nhật A, sinh năm 1987; địa chỉ: Khu phố H, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đ1nh Đức Đ, Luật sư của Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Đ1, sinh năm 1964; địa chỉ: số E C, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1968; địa chỉ: Số E C, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1931; địa chỉ: Số C, đường A, Phường T, Quận I, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Ngọc H: Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1982; địa chỉ: C, đường A, Phường T, quận I, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
+ Ông Nguyễn Duy T1, sinh năm 1988; địa chỉ: Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; có mặt.
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
- Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Nhật A và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Đ1nh Đức Đ cùng thống nhất trình bày:
Năm 2014, ông Nguyễn Ngọc H chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 diện tích đất 263,6m2 và tặng cho ông Nguyễn Ngọc T diện tích đất 819,4m2 liền kề. Hai diện tích đất này thuộc thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, Giấy CNQSD đất số B656030 được UBND huyện H ngày 08/7/1995 cho ông Nguyễn Ngọc H. Sau khi nhận đất, gia đình ông Nguyễn Ngọc Đ1 xây nhà và xây lấn sang phần đất của ông Nguyễn Ngọc T khoảng 25m2.
Đồng thời, vào năm 1988 ông Nguyễn Ngọc H có cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1 mượn phần đất phía trước cổng nhà của ông Nguyễn Ngọc H để cất tạm quán bán hàng tạp hóa và ở từ đó cho đến nay. Sau khi nhận diện tích đất do ông Hoàng t cho, ông T đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Đ1 tháo dỡ quán đề trả lại hiện trạng thông thoáng và trả lối đi thẳng vào nhà nhưng không được vợ chồng ông Đ1 chấp nhận. Vì vậy, ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1 tháo dỡ nhà trả lại 25m2 đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 được UBND huyện H cho ông Nguyễn Ngọc H đã được cập nhập chủ sử dụng cho ông Nguyễn Ngọc T vào ngày 23/6/2014; đồng thời, buộc tháo dỡ căn nhà nằm trong hành lang an toàn đường bộ phía trước trả lại lối đi thẳng vào cổng nhà ông.
Sau khi có kết quả đo đạc, nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại diện tích đất đã lấn chiếm là 11,1m2.
Tại phiên tòa nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 tháo dỡ căn nhà có diện tích 98,6m2 nằm trong hành lang an toàn đường bộ phía trước trả lại lối đi thẳng vào cổng nhà ông.
- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Ngọc Đ1 trình bày:
Ông là con đẻ của ông Nguvễn Ngọc H và bà Trần Thị B. Năm 1987, ông lập gia đình và xin ra ở riêng. Khi đó phía trước nhà cha mẹ ông có 01 lô đất trống nằm trong hành lang bảo vệ đường Q, phần đất này lúc đó do Giáo xứ T3 quản lý và sử dụng làm công viên nên vợ chồng ông xin cha mẹ và Giáo xứ cho làm một căn nhà tạm trên phần đất này để ở và để bán hàng tạp hóa. Sau đó, vợ chồng ông tự vào rừng cưa cây và mua cây gỗ làm một căn nhà lợp lá buông, vách ván, nền gạch bát tràng. Sử dụng nhà một thời gian do xuống cấp nên vợ chồng ông sửa lại căn nhà này bằng cách thay tôn xi măng, xây tường gạch không tô, láng lại nền xi măng. Vợ chồng ông sử dụng căn nhà trên từ năm 1988, đến khoảng năm 1997 thì được ông H, bà B chuyển nhượng cho 263,6m2 đất liền kề (Trong đó có 05m đất chiều ngang theo Quốc lộ E). Sau đó, ông Nguyễn Ngọc T bỏ tiền ra xây bờ rào đề làm ranh giới đất giữa hai bên. Năm 2014, sau khi có giấy CNQSD đất số BQ 484872, vợ chồng ông tiến hành xây nhà trên phần đất này. Sau khi xây nhà xong, vợ chồng ông dọn về nhà mới đề ở; riêng căn nhà nằm trên hành lang bảo vệ đường bộ Quốc lộ E vợ chồng ông cho con là Nguyễn Duy T1 sử dụng để ở và làm tiệm sửa xe. Ông cho rằng, diện tích đất 11,1m2 mà ông Nguyễn Ngọc T yêu cầu vợ chồng ông trả thuộc thửa đất số 49, tờ bản đồ số 22, Giấy CNQSD đất số BQ.484872 ngày 12/3/2014 do UBND huyện H cho ông Nguyễn Ngọc H được cập nhập chủ sử dụng mang tên ông vào ngày 23/6/2014 nên ông không chấp nhận trả lại 11,10m2 đất cho ông Nguyễn Ngọc T.
- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Đ2 trình bày:
Trước đây vợ chồng bà có nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Ngọc H 05m đất để làm nhà ở. Nhà của vợ chồng bà xây hoàn toàn trên đất của mình; bởi vì ông Nguyễn Ngọc T xây hàng rào ranh giới trước khi vợ chồng bà xây nhà. Vợ chồng bà làm móng nhà năm 2014; còn hàng rào do ông Nguyễn Ngọc H xây trước khi vợ chồng bà làm móng nhà khoảng 3-4 năm. Bà cho rằng diện tích đất 11,1m2 mà ông Nguyễn Ngọc T yêu cầu vợ chồng bà trả thuộc thửa đất số 49, tờ bản đồ số 22, Giấy CNQSD đất số BQ.484872 ngày 12/3/2014 do UBND huyện H cho ông Nguyễn Ngọc H đã được cập nhập chủ sử dụng mang tên ông Nguyễn Ngọc Đ1 vào ngày 23/6/2014. Vì vậy, bà không chấp nhận trả lại 11,10m2 đất cho ông Nguyễn Ngọc T.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/10/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc H trình bày:
Vào năm 1973, gia đình ông từ Quảng Ngãi vào H, Bình Thuận sinh sống và được chính quyền chế độ cũ cấp diện tích đất 20m x 50m giáp Quốc lộ E để làm nhà ở. Đến năm 1995 thì diện tích đất này được UBND huyện H cấp Giấy CNQSD đất cho gia đình ông. Năm 1987, ông Nguyễn Ngọc Đ1 (con trai ông) lấy vợ và sống chung với gia đình ông. Do điều kiện khó khăn nên vợ chồng ông Đ1 xin vợ chồng ông làm một quán nhỏ bằng gỗ, lợp lá buông và cỏ tranh trước nhà ông cách 01 con đường đất; quán nhỏ này do vợ chồng ông Đ1 tạo dựng để buôn bán nhỏ và trú ngụ luôn; quán này nằm trong hành lang đường bộ Quốc lộ E. Năm 1998, bà B (vợ ông) chết. Năm 2014, ông chuyển nhượng cho ông Nguyễn Ngọc Đ1 01 phần diện tích đất này với chiều ngang theo Quốc lộ E là 05m, chiều dài khoảng hơn 50m; Phần đất còn lại ông tặng cho con trai út là Nguyễn Ngọc T. Khi tặng cho diện đất này cho ông T, ông có nói với ông Đ1 khi nào làm nhà xong thì phải di dời quán đi nơi khác đề trả lại mặt bằng phía trước cho ông Nguyễn Ngọc T. Tại đơn yêu cầu độc lập, ông yêu cầu Tòa án: Buộc vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại nhà và đất mà ông đã cho mượn để ở tạm trước đây; phần đất này có diện tích 98,6m2 và có giá trị 50.000.000đồng. Nay ông thay đổi yêu cầu độc lập, chỉ yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 tháo dỡ nhà tạm nằm trong hành lang đường bộ Quốc lộ E trả lại mặt bằng phía trước cho ông Nguyễn Ngọc T.
Tại Đơn yêu cầu độc lập bổ sung ngày 23/10/2020, ông Nguyễn Ngọc H yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải tháo dỡ quán trả lại mặt bằng phía trước mà ông đã cho ông bà mượn để ở tạm trước đây. Nếu không tháo dỡ thì vợ chồng ông Đ1 phải trả lại hiện trạng ban đầu cho ông vì ông Đ1 đã có cam kết khi có chỗ ở riêng thì phải trả lại.
- Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ông Nguyễn Ngọc H là ông Nguyễn Ngọc T trình bày:
Thống nhất với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Ngọc H và yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại nhà và đất có diện tích là 98,6m2 nằm trong hành lang an toàn giao thông đường bộ Quốc lộ E mà ông Nguyễn Ngọc H đã cho ông bà mượn để ở tạm trước đây.
- Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn Nguyễn Ngọc Đ1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Đ2 cùng thống nhất trình bày:
Diện tích đất 98,6m2 mà ông Nguyễn Ngọc H yêu cầu ông bà trả trước đây là công viên do G xử T quản lý. Năm 1987, khi ông bà xin cha mẹ ra ở riêng và làm nhà trên diện tích đất này ông bà có xin Giáo xứ và được T3 và cha mẹ chấp nhận; vợ chồng bà sử dụng nhà và diện tích đất này ổn định từ đó cho đến nay không ai tranh chấp. Đất và căn nhà này nằm trong hành lang an toàn đường Quốc lộ 55 do Nhà nước quản lý. Khi nào Nhà nước buộc tháo dỡ thì ông bà sẽ chấp hành. Vì vậy, ông bà không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Ngọc H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Duy T1 trình bày:
Căn nhà có diện tích là của cha mẹ ông (Là Ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2) cho ông mượn để ở và làm tiệm sửa xe. Đây là tài sản của cha mẹ nên ông không có ý kiến gì vì không liên quan đến.
Ngày 23 tháng 10 năm 2020, Tòa án và các cơ quan có liên quan đã tiến hành xem xét, thẩm định, định giá và đo đạc diện tích đất tranh chấp giữa các bên và tại biên bản làm việc sau đo đạc ngày 21 tháng 9 năm 2020, đã xác định:
+ Diện tích đất mà các bên tranh chấp là 11,1m2 thuộc Giấy CNQSD đất số BK 774946 của ông Nguyễn Ngọc T (Trong đó có: 0,8m2 nằm trong phần móng nhà của Ông Nguyễn Ngọc Đ1; 0,2m2 nằm trong phần móng tường rào phía trước của ông Nguyễn Ngọc Đ1; 10,1m2 đất trống). Căn nhà xây gạch của ông Nguyễn Ngọc Đ1 đang sử dụng. Sau khi đo đạc đã xác định có diện tích là 98,6m2, toàn bộ căn nhà này nằm hoàn toàn trong hành lang an toàn đường bộ (27m).
+ Hội đồng định giá tài sản tranh chấp đã xác định giá đất tranh chấp theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương là 2.800.000đ/01m2. Như vậy, giá đất tranh chấp là 11,1m2 x 2.000.000đồng/01m2 = 22.200.000đồng.
+ Khối bê tông móng nhà: 0,8m2 x 0,2m x 2.480.000đồng/01m2 = 396.800đồng.
+ Khối xây đá móng nhà: 0,8m2 x 1,4m x 1.390.000đồng/01m2 = 1.556.800đồng.
+ Khối xây gạch móng tường rào: 0,2m2 x 1,1m x 1.725.000đồng/01m2 = 379.500đồng.
+ Nhà xây gạch xây dựng năm 1988, nằm hoàn toàn trong hành lang an toàn đường bộ Quốc lộ E có diện tích 98,6m2 có giá là: 98,6m 2 x 1.230.000đồng/01m x 5% = 6.063.900đồng.
Đối với diện tích đất nằm trong hành lang an toàn đường bộ nên Hội đồng định giá không tiến hành định giá.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, đã quyết định:
Căn cứ:
- Khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 36; Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 217; Điều 218; Điều 219 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 95; Điều 170; Điều 202; Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013;
- Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc T về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 11,1m2.
- Buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 10,1m2, tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 do Ủy ban nhân dân huyện H ngày 10/10/2012 cho ông Nguyễn Ngọc T.
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 được quyền sử dụng 01m2 đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 do Ủy ban nhân dân huyện H ngày 10/10/2012.
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Ngọc T 2.000.000 đồng giá trị 01m2 đất.
- Ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được điều chỉnh, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 tháo dỡ căn nhà có diện tích 98,6m2 nằm trong hành lang an toàn đường bộ Quốc lộ E của ông Nguyễn Ngọc T.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Ngọc H về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại nhà và đất có diện tích 98,6m2 nằm trong hành lang an toàn đường bộ 27m của Quốc lộ E tại Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải chịu 1.226.655 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Miễn toàn bộ án phí cho ông Nguyễn Ngọc H.
- Ông Nguyễn Ngọc T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho ông Nguyễn Ngọc T 2.250.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai số 0002557 ngày 27/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.
5. Các chi phí tố tụng khác: Ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Ngọc T 2.400.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm thi hành án và thông báo quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27 tháng 6 năm 2022, ông Nguyễn Ngọc T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 24/6/2022. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại toàn bộ vụ án theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Cấp sơ thẩm có thiếu sót không đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Sở Giao thông vận tải tỉnh B và G xử Tân C và tham gia tố tụng là thiếu sót đề nghị hủy án sơ thẩm.
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định yêu cầu kháng cáo gồm: Buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 11,1m2; không đồng ý giá trị 01m2 bằng tiền; các phần khác ông không kháng cáo.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và quan điểm giải quyết vụ án:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung vụ án: Kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án của Tòa án cấp sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Nguyên đơn kháng cáo trong thời hạn và đúng quy định pháp luật nên vụ án được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thụ lý giải quyết là đúng quy định tại khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T chỉ kháng cáo trong phạm vi: Buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 11,1m2, không đồng ý trả giá trị 01m2 bằng tiền, nhận thấy:
Ông Nguyễn Ngọc T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1 trả lại 11,1m2 đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946. Theo ông T thì năm 2014, ông Nguyễn Ngọc H chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 diện tích đất 263,6m2 và tặng cho ông Nguyễn Ngọc T diện tích đất 819,4m2 liền kề. Hai diện tích đất này thuộc thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, Giấy CNQSD đất số B 656030 được UBND huyện H ngày 08/7/1995 cho ông Nguyễn Ngọc H. Sau khi nhận đất, gia đình ông Nguyễn Ngọc Đ1 xây nhà và xây lấn sang phần đất của ông Nguyễn Ngọc T 11,1m2. Vì vậy, ông T yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại diện tích đất đã lấn chiếm là 11,1m2.
Tại Biên bản làm việc sau đo đạc ngày 21 tháng 9 năm 2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện H, Ủy ban nhân dân thị trấn T đã xác định: “Tổng diện tích đất tranh chấp là 11,1m2”. Tại Công văn số 3374/UBND-TNMT ngày 06/10/2020 của Ủy ban nhân dân huyện H đã xác định: “Diện tích đất tranh chấp 11,1m2 thuộc thửa 331, tờ bản đồ số 6 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 do UBND huyện H ngày 10/10/2012 cho ông Nguyễn Ngọc H (Được cập nhập chủ sử dụng mang tên Ông Nguyễn Ngọc T vào ngày 23/6/2014). Trong đó có: 0,8m2 nằm trong phần móng nhà của ông Nguyễn Ngọc Đ1; 0,2m2 nằm trong phần móng tường rào phía trước của ông Nguyễn Ngọc Đ1; 10,1m2 đất trống”. Tại bản vẽ phục vụ vụ án ngày 30/9/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đ cũng thể hiện rõ diện tích đất theo Giấy CNQSD đất số BQ.484872 ngày 10/10/2012 do UBND huyện H cho ông Nguyễn Ngọc H (Được cập nhập chủ sử dụng mang tên ông Nguyễn Ngọc H vào ngày 23/6/2014) là 263,6m2. Như vậy, việc ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 cho rằng diện tích đất 11,1m2 mà các bên tranh chấp trước đây thuộc thửa đất số 49 tờ bản đồ số 22 Giấy CNQSD đất số BQ.484872 ngày 12/3/2014 do UBND huyện H cho ông Nguyễn Ngọc H (Được cập nhập chủ sử dụng mang tên ông Nguyễn Ngọc Đ1 vào ngày 23/6/2014) là không có cơ sở. Do đó, ông Nguyễn Ngọc T yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại diện tích đất 11,1m2 là có căn cứ.
[3] Xét thấy, Diện tích đất 11,1m2 đất mà các bên tranh chấp có 0,8m2 nằm trong phần móng nhà của ông Nguyễn Ngọc Đ1; 0,2m2 nằm trong phần móng tường rào phía trước nhà của ông Nguyễn Ngọc Đ1; 10,1m2 đất trống. Nếu tháo dỡ 0,8m2 nằm trong phần móng nhà và 0,2m2 nằm trong phần móng tường rào của ông Nguyễn Ngọc Đ1 để trả lại đất cho ông Nguyễn Ngọc T thì sẽ ảnh hưởng đến kết cấu của căn nhà, gây thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 rất lớn. Hơn nữa, hai ông là anh em ruột của nhau. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm giao lại diện tích đất 0,8m2 nằm trong phần móng nhà và 0,2m2 nằm trong phần móng tường rào phía trước nhà của ông Nguyễn Ngọc Đ1 cho ông Đ1, bà Đ2 sử dụng và buộc ông Đ1, bà Đồng h lại giá trị cho ông Nguyễn Ngọc T; đồng thời, buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 trả lại 10,1m2 đất là phù hợp quy định pháp luật và thực tiễn xét xử.
[4] Ngày 12/1/2023 ông Nguyễn Ngọc T có đơn xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tại tài sản tranh chấp. Hội đồng xét xử đã tạm ngừng phiên tòa đề đi xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tại tài sản tranh chấp, vào ngày 09/2/2023 theo quy định pháp luật.
[5] Trong quá trình xét xử phúc thẩm ông Nguyễn Duy T1 có cung cấp hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông Nguyễn Ngọc T và ông Nguyễn Duy T1 đối với diện tích 98,6m2 nhà không số tại Khu phố G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận và đề nghị ghi nhận ý kiến của các ông. Xét đây là giao dịch dân sự giữa hai ông thực hiện theo quy định của pháp luật, không nằm trong phạm vi nội dung kháng cáo nên không xem xét.
[6] Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không được chấp nhận với những lý do; Phạm vi, nội dung kháng cáo buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 11,1m2, diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc T, không liên quan đến diện tích đất 98,6m2 nằm trong hành lang đường bộ Quốc lộ E. Vì vậy, không ảnh hưởng quá trình xét xử phúc thẩm.
[7] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, trùng với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 18/2022/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân.
[8] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Ngọc T.
[9] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Án phí dân sự sơ thẩm tranh chấp đất đai không có giá ngạch, cấp sơ thẩm tính chưa chính xác, cấp phúc thẩm điều chỉnh cho phù hợp.
[10] Về chi phí tố tụng xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tại giai đoạn phúc thẩm, số tiền 4.900.000 đồng do ông Nguyễn Ngọc T yêu cầu và kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc T không được chấp nhận nên phải chịu 4.900.000 đồng chi phí và ông T đã nộp đủ.
Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 18/2022/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân.
Căn cứ:
- Khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 36; Điều 39; khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 217; Điều 218; Điều 219 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 95; Điều 170; Điều 202; Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013;
- Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc T về việc yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 11,1m2.
- Buộc ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải trả lại diện tích đất 10,1m2 (đất trống) tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 do Ủy ban nhân dân huyện H ngày 10/10/2012 cho ông Nguyễn Ngọc T.
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 được quyền sử dụng 01m2 đất tại thửa đất số 331, tờ bản đồ số 6, thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 774946 do Ủy ban nhân dân huyện H ngày 10/10/2012.
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Ngọc T 2.000.000đồng (Hai triệu đồng) giá trị 01m2 đất.
- Ông Nguyễn Ngọc T, ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được điều chỉnh, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Ngọc Đ1 và bà Nguyễn Thị Đ2 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Ngọc T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho ông Nguyễn Ngọc T 2.250.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Biên lai số 0002557 ngày 27/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.
- Ông Nguyễn Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0010331 ngày 15 tháng 8 năm 2022.
3. Các chi phí tố tụng khác: Ông Nguyễn Ngọc Đ1, bà Nguyễn Thị Đ2 phải hoàn trả cho ông Nguyễn Ngọc T 2.400.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản.
Ông Nguyễn Ngọc T phải chịu 4.900.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, ông đã nộp đủ.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (Đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
(Đính kèm theo bản vẽ ngày 30/9/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện H).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 31/7/2023).
Bản án về tranh chấp đất đai số 91/2023/DS-PT
Số hiệu: | 91/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về