Bản án về tranh chấp đặt cọc số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐẶT CỌC

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự “Tranh chấp về đặt cọc”, thụ lý số 203/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐST-DS ngày 05 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Ng. H. P Sinh năm: 1986

Địa chỉ: 175 Quốc lộ S Phường H thành phố T tỉnh L.

- Bị đơn : Ông Ng. Văn C Sinh năm : 1981

Địa chỉ : 153 Tổ 46 ấp M xã H huyện C tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn Ng. H. P trình bày: Ngày 12 tháng 11 năm 2020, ông và ông Ng. Văn C đã ký kết hợp đồng đặt cọc, với nội dung ông C nhận của ông số tiền đặt cọc là 170.000.000 đồng để ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 9.259,2m2 đất lúa tại ấp M xã H huyện C tỉnh T với giá chuyển nhượng là 620.000.000 đồng, thời hạn thực hiện hợp đồng là 360 ngày. Tuy nhiên, ông C đã không thực hiện việc ký kết hợp đồng dù đã nhận của ông 200.000.000 đồng. Do đó, ông khởi kiện, yêu cầu ông Ng. Văn C, trả cho ông số tiền đặt cọc là 170.000.000 đồng, tiền phạt cọc 170.000.000 đồng và 30.000.000 đồng tiền trả trước đã nhận của ông.

Ông Ng. Văn C đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng, do đó, ngày 05 tháng 01 năm 2022, Tòa án đã lập Biên bản về không kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Giữa ông Ng. H. P và ông Ng. Văn C đã xác lập giao dịch bảo đảm là biện pháp đặt cọc, trong đó, ông Ng. H. P đã đặt cọc 170.000.000 đồng để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thửa số 163 tờ bản đồ số 11 ấp Mỹ Trung xã Hậu Mỹ Bắc B huyện Cái Bé tỉnh Tiền Giang, với giá chuyển nhượng là 620.000.000 đồng, thời hạn để các bên thực hiện việc ký kết hợp đồng là 360 ngày, kể từ ngày ký kết giao dịch. Thực hiện thỏa thuận, ngày 12 tháng 11 năm 2020, ông Ng. H. P đã giao cho ông Ng. Văn C 200.000.000 đồng. Tuy nhiên, hết thời hạn thỏa thuận, ông Ng. Văn C không thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Ông C. Do đó, ông Ng. H. P khởi kiện, yêu cầu ông Ng. Văn C hoàn trả lại số tiền đã nhận là 200.000.000 đồng cùng khoản tiền tương đương với tiền đặt cọc là 170.000.000 đồng. Theo thỏa thuận về việc lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp của ông Ng. H. P và ông Ng. Văn C khi giao dịch, Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh L thụ lý và giải quyết vụ án. theo quy định tại Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự,

[2] Ông Ng. Văn C đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó, ngày 05 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố T đã lập Biên bản về việc không kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ được và Biên bản không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân thành phố T đưa vụ án ra xét xử, ông Ng. Văn C vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa ngày 24 tháng 01 năm 2022 và ngày 23 tháng 02 năm 2022, ông C cũng không tham gia phiên tòa; ông Ng. H. P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố T xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Ông Ng. Văn C không tham gia tố tụng. Tuy nhiên, căn cứ vào “Hợp đồng đặt cọc”, bắt đầu bằng “Cộng hòa” và kết thúc bằng chữ ký của “Ng. H. P” “Ng. Văn C” và văn bản viết tay “Biên nhận tiền”, có cơ sở xác định việc ông Ng. Văn C đã nhận số tiền đặt cọc là 170.000.000 đồng và 30.000.000 đồng tiền trả trước của ông Ng. H. P để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, hết thời hạn đã giao kết, ông C không thực hiện việc ký kết hợp đồng như đã thỏa thuận, do vậy, ông Ng. Văn C phải hoàn trả lại số tiền đã nhận và khoản tiền tương đương số tiền đặt cọc theo đúng cam kết của các bên Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật dân sự.

[4] Ông Ng. Văn C có nghĩa vụ trả cho ông Ng. H. P 200.000.000 đồng tiền đã nhận của ông Ng. H. P và khoản tiền tương đương với tiền đặt cọc là 170.000.000 đồng. Như vậy, ông Ng. Văn C phải trả cho ông Ng. H. P là 370.000.000 đồng.

[5] Về án phí: Ông Ng. Văn C phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể: 370.000.000 đồng x 5% = 18.500.000 đồng. Ông Ng. H. P không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 328 Bộ luật dân sự; Điều 272 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc ông Ng. Văn C phải trả cho ông Ng. H. P 370.000.000 (ba trăm bảy mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian còn phải thi hành.

Về án phí: ông Ng. Văn C phải chịu án phí sơ thẩm là 18.500.000 đồng. Hoàn trả cho ông Ng. H. P 10.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà Ông C đã nộp (theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001101 ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tỉnh L).

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

460
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp đặt cọc số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về