Bản án về tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất số 86/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 86/2021/DS-PT NGÀY 19/03/2021 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 09/3/2021 và ngày 19/3/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 537/2020/TLPT- DS, ngày 31 tháng 12 năm 2020, về việc“Tranh chấp dân sự về ranh giới quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 44/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 46/2021/QĐ-PT ngày 17 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Thanh T, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Số 43A, Nguyễn Sinh S, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Dương Văn Đ, sinh năm 1988;

Địa chỉ: 579, Nguyễn Sinh S, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp;

Người đại diện theo ủy quyền của anh Đ: Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1954; Địa chỉ: 39/1, Khóm 2, Phường 1, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/12/2018).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Võ Thị Hồng T, sinh năm 1993;

Địa chỉ: 579, Nguyễn Sinh S, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp;

Người đại diện theo ủy quyền của chị Thắm: Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1954; Địa chỉ: 39/1, Khóm 2, Phường 1, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp là đại diện ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 16/02/2019).

3.2. Nguyễn Tuyết T, sinh năm 1976;

3.3. Lê Nguyễn Thanh T, sinh năm 1993;

Người đại diện theo ủy quyền của bà T, anh Tr: Ông Lê Thanh T, sinh năm 1973; Cùng địa chỉ: Số 43A, Nguyễn Sinh S, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 16/7/2019).

3.4. Ủy ban nhân dân thành phố S;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H - Chức vụ: Chủ tịch UBND thành phố S;

Địa chỉ: 530A, Nguyễn Sinh S, Khóm 5, Phường 1, TP. S, Đồng Tháp.

3.5. Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên X S;

Địa chỉ: số 579, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, TP. S, Đồng Tháp.

Người đại diện theo pháp luật: Dương Văn Đ, sinh năm 1988 - Chức vụ: Chủ tịch Công ty kiêm Giám đốc; Địa chỉ: số 579, ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Dương Văn Đ: Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1954; Địa chỉ: 39/1, Khóm 2, Phường 1, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/8/2020).

3.6. Ngân hàng TMCP N;

Người đại diện hợp pháp: Ông Phan Duy P - Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng TMCP N - Chi nhánh Đồng Tháp là đại diện theo ủy quyền; Địa chỉ: 89, đường Lý Thường K, Phường 2, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (Theo Giấy ủy quyền số 318/UQ-VCB.PC ngày 18/6/2018 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP N);

Ông Phan Duy P ủy quyền lại cho anh Võ Minh Trí - Trưởng phòng giao dịch S - Ngân hàng TMCP N - Chi nhánh Đồng Tháp; Địa chỉ: Địa chỉ: 289, đường V, Phường 1, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp (Theo Giấy ủy quyền số 253/UQ-ĐTH- GDSĐ ngày 25/02/2021).

(Tại phiên tòa phúc thẩm, có mặt: ông Nguyễn Xuân K; vắng mặt: đại diện hợp pháp của UBND thành phố S, đại diện hợp pháp của Ngân hàng TMCP N, ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T và anh Lê Nguyễn Thanh T, vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người kháng cáo: Anh Dương Văn Đ là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Lê Thanh T đồng thời đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Tuyết T, anh Lê Nguyễn Thanh T trình bày:

Thửa đất số 123, tờ bản đồ số 04, diện tích 253,1m2, đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S có nguồn gốc là do bà Nguyễn Tuyết T (Vợ ông T) tặng cho ông T ngày 30/01/2012. Ngày 20/02/2012 Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã S (nay là thành phố S) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng (QSD) đất cho ông Lê Thanh T đứng tên. Đến năm 2014, ông T xin cấp đổi lại giấy chứng nhận QSD đất và được UBND thành phố S cấp giấy chứng nhận QSD đất, quyền sở hữu (QSH) nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 12/12/2014. Các lần cấp đổi đều có ký giáp ranh gồm bà Phan Thị Tuyết N, bà Nguyễn Thị C và ông Tiêu Thanh H.

Tiếp giáp thửa đất 123 là thửa đất số 594, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.000,5m2 do anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T đứng tên giấy chứng nhận QSD đất. Nguồn gốc thửa đất 594 là vào năm 2017, anh Đ và chị T nhận chuyển nhượng QSD đất của ông Nguyễn Minh H. Trong quá trình quản lý, sử dụng đất đến khoảng tháng 10 năm 2017, anh Đ và chị T xây dựng nhà kho, lợp mái tole, máng xối, ống thoát nước lấn chiếm sang thửa 123 của ông T. Về ranh giới đất trước đây giữa thửa đất 123 và thửa đất 594 là tường rào bê tông cốt thép được bà Phan Thị Tuyết N là chủ cũ của thửa đất 594 xây dựng khoảng năm 1997. Khi ông T phát hiện anh Đ, chị T xây dựng lấn ranh đất của ông T thì ông T có ngăn cản và yêu cầu Công an xã Tân Phú Đ can thiệp và gởi đơn đến UBND xã Tân Phú Đ giải quyết nhưng hòa giải không thành.

Nay ông Lê Thanh T yêu cầu xác định ranh giới QSD đất giữa thửa đất 123 của ông T với thửa đất 594 của anh Đ, chị T là đường nối các mốc 2-11-9-6. Trên cơ sở đó, ông T yêu cầu anh Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T, Công ty TNHH một thành viên X S (viết tắt là Công ty Đ) di dời tường nhà kho, máng nước (máng xối), ống nước trả lại diện tích đất lấn chiếm 6,8m2 thể hiện bởi các mốc 2A-2-11-9-6-7-10-12- 2A (hình 2) và tháo dỡ, di dời phần máng nước của nhà kho trả lại diện tích đất lấn chiếm 1,1m2 thể hiện tại các mốc 7-7A-10-7 theo trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S cho ông T quản lý sử dụng. Ông T không đồng ý nhận giá trị đất và cũng không đồng ý bồi thường thiệt hại hay hỗ trợ chi phí để anh Đ, chị T, Công ty Đ di dời tài sản. Trong phần đất tranh chấp diện tích 6,8m2 thể hiện bởi các mốc 2A-2-11-9-6-7-10-12- 2A (hình 2), có một phần tường nhà ông T diện tích 1,8m2, theo các mốc 9-10-12-11- 9 được ông T, bà T xây dựng từ năm 1996, hiện nay do ông T, bà T và anh Thanh Tr sử dụng; trong trường hợp xác định ranh đất là đường thẳng nối các mốc 2A-12-10-7 thì phần tường nhà diện tích 1,8m2 này ông T, bà T, anh Thanh Tr đồng ý tự nguyện tháo dỡ, di dời, không yêu cầu anh Đ, chị T hỗ trợ chi phí tháo dỡ, di dời, không đồng ý trả giá trị đất. Ngoài ra, ông T, bà T, anh Thanh Tr không có yêu cầu gì khác.

* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn anh Dương Văn Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Hồng T, Công ty TNHH một thành viên X S là ông Nguyễn Xuân K trình bày:

Nguồn gốc thửa đất 594, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.000,5m2 đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, TP. S, tỉnh Đồng Tháp theo giấy chứng nhận QSD đất cấp cho anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T là do anh Đ, chị T nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Minh H vào tháng 9 năm 2017. Diện tích 1.000,5m2, trong đó có 500m2 mục đích sử dụng đất ở và 500,5m2 mục đích sử dụng là đất chuyên trồng lúa.

Sau khi nhận chuyển nhượng đất, anh Đ, chị T có xin phép xây dựng nhà kho. Nhà kho bao gồm các hạng mục mới là nhà ở, nhà làm việc và kho bãi nơi anh Đ, chị T kinh doanh mặt hàng đá trang trí trong xây dựng, hiện Công ty Đ đang sử dụng nhà kho, Công ty Đ do anh Dương Văn Đ là Chủ tịch công ty kiêm giám đốc đại diện theo pháp luật. Trong quá trình xây dựng nhà kho, có cán bộ Địa chính - Xây dựng xã Tân Phú Đ, cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố S, ông Nguyễn Minh H và ông T chứng kiến. Anh Đ và chị T xây dựng công trình theo đúng diện tích mà anh Đ và chị T đã nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Minh H. Thửa đất 594 và tài sản trên đất tranh chấp là của anh Đ và chị T.

Nay anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T không đồng ý theo yêu cầu của ông Lê Thanh T; anh Đ, chị T xác định ranh giới quyền sử dụng đất thửa đất 549 của anh Đ, chị T và thửa đất 123 của ông T là đường nối các mốc 2A-12-10-7 theo trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S.

Tại phiên tòa, phía bị đơn xác định đối với phần diện tích đất đang tranh chấp 6,8m2 thể hiện bởi các mốc 2A-2-11-9-6-7-10-12-2A (hình 2) có một phần căn nhà của ông T diện tích 1,8m2 theo các mốc 9-10-12-11-9, trong trường hợp xác định ranh đất giữa đất ông T và anh Đ, chị T là đường nối các mốc 2A-12-10-7 thì phía bị đơn đồng ý giữ nguyên hiện trạng cho phía nguyên đơn được sử dụng phần đất gắn liền với căn nhà, diện tích 1,8m2 gồm các mốc 9-10-12-11-9, không yêu cầu tháo dỡ, di dời trả lại phần diện tích căn nhà lấn chiếm cho phía bị đơn.

Đối với phần máng nước của nhà kho có diện tích 1,1m2 thể hiện tại các mốc 7-7A-10-7 theo trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S anh Đ chị T xác định thuộc thửa đất số 123 của ông T. Anh Đ, chị T và Công ty Đ xác định di dời được và tự nguyện tháo dỡ, di dời phần máng nước này, không yêu cầu ông T, bà Th, anh Tr hỗ trợ chi phí di dời, không đồng ý trả giá trị đất cho ông T.

Hiện bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 594, tờ bản đồ số 04 anh Đ, chị Thắm đang thế chấp cho Ngân hàng TMCP N chi nhánh Đồng Tháp - Phòng giao dịch S theo Hợp đồng thế chấp số 01/2020/VCB-ĐT/SĐ ngày 02/01/2020, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 01/2020/NHNT.ĐT/SĐ ngày 02/01/2020, số tiền vay tối đa là 7.000.000.000 đồng mà anh Đ vay Ngân hàng. Anh Đ chị T không có tranh chấp, không yêu cầu gì đối với Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 01/2020/NHNT.ĐT/SĐ và Hợp đồng thế chấp số 01/2020/VCB-ĐT/SĐ cùng ngày 02/01/2020. Ngoài ra, anh Đ, chị T, Công ty Đ không có yêu cầu gì khác.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố S có văn bản trình bày ý kiến như sau:

UBND thành phố S cấp giấy chứng nhận QSD đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Lê Thanh T ngày 12/12/2014, thửa đất 123, tờ bản đồ 04 là đúng theo trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy. Trước khi cấp giấy chứng nhận không đo đạc do giấy chứng nhận đã cấp cho ông T trước đó đã theo hệ thống bản đồ chính quy. Theo giấy chứng nhận, QSD đất đã cấp là cấp cho ông Lê Thanh T.

UBND thành phố S cấp giấy chứng nhận QSD đất diện tích 1.000,5m2, thửa đất 594, tờ bản đồ số 04, mục đích sử dụng đất ở 500m2, đất chuyên trồng lúa nước 500,5m2 cho bà Phan Thị Tuyết N là đúng theo trình tự, thủ tục pháp luật tại thời điểm cấp.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP N chi nhánh Đồng Tháp - Phòng giao dịch S đại diện là ông Võ Minh Trí có văn bản trình bày ý kiến như sau:

Anh Dương Văn Đ có ký hợp đồng cho vay theo hạn mức với Ngân hàng TMCP N chi nhánh Đồng Tháp - Phòng giao dịch S và thế chấp tài sản là QSD đất do anh Đ và chị T đứng tên thửa đất 594, tờ bản đồ số 04, diện tích 1.000,5m2 đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp. Hiện nay nợ vay của anh Đ chưa đến hạn trả, Ngân hàng không có yêu cầu gì trong vụ án. Trường hợp có yêu cầu Ngân hàng sẽ khởi kiện trong vụ án khác.

Tại bản án sơ thẩm số 44/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S đã xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T, anh Lê Nguyễn Thanh T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất với phía bị đơn anh Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T.

Ranh giới quyền sử dụng đất thửa đất 123, tờ bản đồ 04 của ông Lê Thanh T với thửa đất số 594, tờ bản đồ số 04 của anh Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T, đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp được xác định lại là đường nối từ các mốc 2A-12-10-7 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S.

Ranh đất được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian đến lòng đất. Trên cơ sở xác định ranh đất như trên, tài sản bên nào lấn chiếm ranh đất phải được di dời theo quy định pháp luật, trừ một phần căn nhà của ông T, bà T có diện tích 1,8m2, thể hiện tại các mốc 9-10-12-11-9 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S. Bị đơn không yêu cầu di dời tháo dỡ nhà, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Đ, chị T, Công ty Đ có trách nhiệm di dời tài sản trả lại ông Lê Thanh T khoảng không gian diện tích đất 1,1m2, thể hiện bởi các mốc 7,7A,10,7 theo trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S.

(Kèm theo là biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S).

2. Về án phí: Ông T, bà T, anh Thanh Tr phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003505 ngày 07/12/2018 và 126.000 đồng theo biên lai thu số 0000972 ngày 09/5/2020. Sau khi khấu trừ ông T được nhận lại 126.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S.

Anh Đ, chị T phải liên đới chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:

Ông T, bà T, anh Thanh Tr phải liên đới chịu 2.237.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Anh Đ, chị T phải liên đới chịu 1.297.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Do ông T đã nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản số tiền là 3.534.000 đồng, nên anh Đ, chị T phải liên đới trả cho ông T 1.297.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/10/2020, anh Dương Văn Đ là bị đơn trong vụ án đã kháng cáo bản án sơ thẩm số: 44/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S; anh Đ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm để xử lại cho đúng với diện tích đất của anh Đ được công nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn anh Dương Văn Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Hồng T, Công ty TNHH một thành viên X S là ông Nguyễn Xuân K trình bày: Anh Dương Văn Đ chỉ kháng cáo yêu cầu ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T và anh Lê Nguyễn Thanh T di dời một phần căn nhà (phần bức tường nhà) của ông T, bà T có diện tích 1,8m2, thể hiện tại các mốc 9- 10-12-11-9 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S. Anh Đ thống nhất tự nguyện di dời tài sản (phần máng xối) trả lại ông Lê Thanh T khoảng không gian diện tích đất 1,1m2, thể hiện bởi các mốc 7,7A,10,7 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S. Đối với các phần còn lại theo quyết định của bản án sơ thẩm anh Đ thống nhất không kháng cáo, đồng thời không yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ lại đối với đất tranh chấp và tài sản trên đất.

- Nguyên đơn ông Lê Thanh T đồng thời đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Tuyết T, anh Lê Nguyễn Thanh T vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt. Nên không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu:

+ Về tố tụng: Thủ tục kháng cáo của bị đơn anh Dương Văn Đ ngày 14/10/2020 thực hiện đúng quy định và hợp lệ theo quy định tại Điều 273, 277 Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc thẩm Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm; Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định các Điều 70, 71, 72 và 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Do kháng cáo của bị đơn anh Dương Văn Đ là không có cơ sở, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận toàn bộ nội dung đơn kháng cáo của anh Dương Văn Đ; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố S thụ lý và giải quyết sơ thẩm vụ án dân sự về việc “Tranh chấp dân sự về ranh giới QSD đất” là đúng quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án. Sau khi xét xử sơ thẩm bị đơn anh Dương Văn Đ không thống nhất bản án dân sự sơ thẩm số:

44/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố S nên đã kháng cáo. Việc anh Đ nộp đơn kháng cáo ngày 14/10/2020 là trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện hợp pháp của UBND thành phố S, đại diện hợp pháp của Ngân hàng TMCP N, ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T và anh Lê Nguyễn Thanh T vắng mặt và đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt và đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Nguyên đơn ông Lê Thanh T tranh chấp ranh giới QSD đất thửa 123, diện tích 253,1m2, tờ bản đồ 04 do ông Lê Thanh T đứng tên giấy chứng nhận QSD đất với thửa 594, diện tích 1.000,5m2, tờ bản đồ số 04 do anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T đứng tên giấy chứng nhận QSD đất, đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp. Ông Đức khởi kiện yêu cầu xác định ranh giới QSD đất thửa 123 của ông T với thửa 594 của anh Đ, chị T là đường nối từ mốc 2-11-9-6 đồng thời yêu cầu anh Đ, chị T, Công ty Đ liên đới di dời tài sản của anh Đ chị T, Công ty Đ có trên đất tranh chấp diện tích 6,8m2 (Hình 2) để trả lại cho ông T quản lý, sử dụng. Bị đơn ông Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T không đồng ý theo yêu cầu của ông T; ông Đức, chị Thắm xác định ranh giới quyền sử dụng đất thửa đất 594 của anh Đ, chị T với thửa đất 123 của ông T là đường nối các mốc 2A-12-10-7. Trên phần đất tranh chấp có phần máng nước của nhà kho có diện tích 1,1m2 thể hiện tại các mốc 7-7A-10-7, anh Đ chị T xác định thuộc thửa đất số 123 của ông T và thống nhất tháo dỡ, di dời phần máng nước này, không yêu cầu ông T, bà Th, anh Trí hỗ trợ chi phí di dời, không đồng ý trả giá trị đất cho ông T. Ngoài ra trên đất tranh chấp diện tích 6,8m2 có một phần nhà (tường nhà) của ông T gồm các mốc 9-10-12-11-9, diện tích 1,8m2, căn nhà ông T có kết cấu khung cột bê tông cốt thép, tường xây gạch quét vôi được ông T, bà T xây dựng từ năm 1996, hiện nay phần căn nhà này do ông T, bà T và anh Tr sử dụng. Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện bị đơn đồng ý giữ nguyên hiện trạng cho phía nguyên đơn được sử dụng phần tường nhà của ông T gồm các mốc 9-10-12-11-9, diện tích 1,8m2 (Theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S).

[3] Hội đồng xét xử xét thấy việc Tòa án sơ thẩm Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn ông Lê Thanh T xác định anh giới QSD đất thửa 123của ông T với thửa 594 của anh Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T theo các mốc 2A-12-10-7 là có cơ sở phù hợp với QSD đất đã được cấp, phù hợp với thực tế hiện trạng sử dụng đất giữa các bên và phù hợp tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Tại Tòa án cấp sơ thẩm đại diện theo ủy quyền của ông T, bà Thắm và Công ty Đ là ông Nguyễn Xuân K đã thống nhất tự nguyện di dời, tháo dỡ phần máng nước của nhà kho có diện tích 1,1m2 thể hiện tại các mốc 7-7A-10- 7, không yêu cầu ông T, bà Th, anh Trí hỗ trợ chi phí di dời do xác định trên QDS đất thửa 123 của ông T, nên đã được Tòa án chấp nhận là phù hợp. Đối với một phần căn nhà của ông T, bà T có diện tích 1,8m2, thể hiện tại các mốc 9-10-12-11- 9 phía ông T, bà Thắm cũng không yêu cầu ông T, bà Th, anh Trí di dời, tháo dỡ phần nhà này hay yêu cầu trả giá trị QSD đất nên Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét, giải quyết là phù hợp.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Xuân K đại diện cho bị đơn anh Dương Văn Đ thống nhất di dời, tháo dỡ phần máng nước của nhà kho có diện tích 1,1m2 thể hiện tại các mốc 7-7A-10-7 như bản án sơ thẩm đã tuyên, đồng thời rút lại yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ lại đối với đất tranh chấp và tài sản trên đất. Theo đó anh Dương Văn Đ chỉ kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết buộc ông T, bà T và anh Tr có nghĩa vụ di dời, tháo dỡ phần nhà (tường nhà) có diện tích 1,8m2, thể hiện tại các mốc 9-10-12-11-9 để trả lại đất cho anh Đ, chị T sử dụng theo như diện tích đất đã công nhận cho anh Đ, chị T. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của anh Đ là không có cơ sở, bởi lẽ tại Tòa án cấp sơ thẩm anh Đ không có yêu cầu phản tố việc này và chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, giải quyết trong vụ án này, nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, giải quyết yêu cầu kháng cáo này của anh Đ.

[5] Từ cơ sở trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Dương Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Đối với quan điểm và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay như nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy là có cơ sở và phù hợp pháp luật nên được xem xét chấp nhận.

[7] Về án phí: Do kháng cáo của anh Dương Văn Đ không được chấp nhận, nên anh Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Dương Văn Đ;

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm;

Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và các Điều 91, 92, 147, 157, 158, 165, 166, 227, 264, 271, 273, 278 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 169 và Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 203 Luật đất đai 2013; Điều 26, Điều 27 và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất với anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T.

Ranh giới quyền sử dụng đất thửa đất số 123, diện tích 253,1m2, tờ bản đồ 04 do ông Lê Thanh T đứng tên giấy chứng nhận QSD đất với thửa đất số 594, diện tích 1.000,5m2, tờ bản đồ số 04 do anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T đứng tên giấy chứng nhận QSD đất, đất tọa lạc tại ấp Phú L, xã Tân Phú Đ, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp được xác định lại là đường nối từ các mốc 2A-12-10-7 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S.

Ranh giới QSD đất được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian đến lòng đất. Trên cơ sở xác định ranh đất như trên, tài sản bên nào lấn chiếm ranh đất phải được di dời, tháo dỡ theo quy định pháp luật, trừ một phần căn nhà (tường nhà) của ông T, bà T có diện tích 1,8m2, thể hiện tại các mốc 9-10-12-11-9 theo Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S. Bị đơn không yêu cầu di dời, tháo dỡ nhà nên không xem xét.

Anh Dương Văn Đ, chị Võ Thị Hồng T và Công ty Đ có trách nhiệm di dời tài sản trả lại ông Lê Thanh T khoảng không gian diện tích đất 1,1m2, thể hiện bởi các mốc 7,7A,10,7 theo trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố S.

(Kèm theo là Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân thành phố S và Trích đo địa chính số 244-2019 điều chỉnh bổ sung ngày 27/7/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố S).

2.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T và anh Lê Nguyễn Thanh T phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông T đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu số BH/2017 0003505 ngày 07/12/2018 và số tiền 126.000 đồng, theo biên lai thu số BH/2019 0000972 ngày 19/5/2020. Sau khi khấu trừ ông T được nhận lại 126.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

- Anh Dương Văn Đ và chị Võ Thị Hồng T phải liên đới chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

2.3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:

Ông Lê Thanh T, bà Nguyễn Tuyết T và anh Lê Nguyễn Thanh T phải liên đới chịu 2.237.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Anh Đ, chị T phải liên đới chịu 1.297.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Do ông T đã nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản số tiền là 3.534.000 đồng, nên anh Đ, chị T phải liên đới trả lại cho ông T số tiền 1.297.000 đồng.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm - Anh Dương Văn Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số BH/2019 0008494 ngày 11/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự ranh giới quyền sử dụng đất số 86/2021/DS-PT

Số hiệu:86/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về