TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 26/2024/DS-ST NGÀY 18/03/2024 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong các ngày 23 tháng 02 và 18 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 369/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp về dân sự hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Thanh P, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Khóm T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của ông Trần Thanh P: Bà Nguyễn Thanh V, sinh năm 1988. Địa chỉ: Số D, ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, là người đại diện theo ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 24/11/2023).
- Bị đơn:
1. Ông Huỳnh Thiện Thanh T, sinh năm 1974;
2. Bà Huỳnh Thị Cẩm T1, sinh năm 1975.
Cùng địa chỉ: Số E, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Bà Nguyễn Thanh V có mặt tại phiên tòa; ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Trần Thanh P có người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thanh V trình bày:
Vào ngày 29/11/2017, ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 có vay của ông Trần Thanh P số tiền gốc 10.500.000 đồng, lãi suất không có ghi trong biên nhận nhưng có thỏa thuận miệng là 20%/năm, tương đương 1,66%/tháng, thời hạn vay không có ghi trong biên nhận nhưng thỏa thuận miệng là 12 tháng; tại cửa hàng kinh doanh của ông P thì ông T và bà T1 có ký tên và ghi họ tên vào biên nhận ngày 29/11/2017 do ông P đánh máy sẵn. Ông T và bà T1 đóng lãi theo thỏa thuận từ ngày vay 29/11/2017 đến 29/10/2021 được 8.178.000 đồng, nhưng từ ngày 30/10/2021 thì ông T và bà T1 không có trả được tiền vay gốc và lãi cho ông P.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Thanh P yêu cầu ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 trả cho ông Trần Thanh P số tiền vay gốc là 10.500.000 đồng và tiền lãi với lãi suất 1,66%/tháng tính từ ngày 30/10/2021 cho đến ngày Tòa án giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của ông Trần Thanh P xác định ông P thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể ông P chỉ yêu cầu ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 trả cho ông Trần Thanh P số tiền vay gốc là 8.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
- Bị đơn ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1: Ông T và bà T1 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T và bà T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa hòa giải 02 lần, thông báo về việc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông T và bà T1 vắng mặt không có lý do, không cung cấp văn bản ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông P, cũng không tham dự phiên họp – hòa giải 02 lần và phiên tòa 02 lần nên Tòa án không thu thập được lời khai, ý kiến của ông T và bà T1 đối với yêu cầu khởi kiện của ông P.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P, buộc ông T và bà T1 chịu trách nhiệm liên đới trả cho ông P số tiền vay gốc là 8.000.000 đồng.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:
- iấy CMND, sổ hộ khẩu có tên ông Trần Thanh P (Bản sao);
- Biên nhận ngày 29/11/2017 của ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 (Bản chính);
- Đơn xin xác nhận nơi cư trú người bị kiện ngày 17/02/2022 (Bản chính);
- Hợp đồng ủy quyền ngày 24/11/2023 của ông Trần Thanh P (Bản chính);
- Bản tự khai ngày 20/12/2023 của ông Trần Thanh P (Bản chính);
- Văn bản xác minh nơi cứ trú đối với ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 ngày 25/01/2024 của Công an xã T, huyện T (Bản chính).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Theo yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là “Tranh chấp về dân sự hợp đồng vay tài sản”, Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Bị đơn ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 hiện nay cư trú tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, nên nguyên đơn khởi kiện vụ án tại Tòa án nơi bị đơn cư trú là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Bị đơn ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có cung cấp ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T và bà T1 theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.4] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ, nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Trần Thanh P xác định ông P chỉ yêu cầu ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 chịu trách nhiệm liên đới trả cho ông P số tiền vay gốc còn nợ là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), không yêu cầu tính lãi. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của ông P là có lợi cho bị đơn và phù hợp theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Căn cứ vào biên nhận ngày 29/11/2017, thể hiện ông P có cho ông T, bà T1 vay số tiền gốc là 10.500.000 đồng (Mười triệu năm trăm nghìn đồng) và ông T, bà T1 đã nhận đủ số tiền vay gốc nêu trên. Nội dung biên nhận cho thấy tại thời điểm ông P cho ông T, bà T1 vay tiền thì các bên đều tự nguyện, có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch về việc cho vay tiền, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Tại biên nhận ngày 29/11/2017 không thỏa thuận thời hạn vay tiền, nên việc ông P khởi kiện tại Tòa án yêu cầu ông T, bà T1 trả nợ vào tháng 8/2022 đến nay đã quá thời hạn trả nợ, nhưng ông T, bà T1 không có trả nợ và cũng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh đã trả nợ cho ông P, nên ông T, bà T1 đã vi phạm hợp đồng vay tài sản đối với ông P.
Ông P cam đoan chữ ký và chữ viết họ tên người vay tiền tại biên nhận là của ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1, đồng thời cam đoan ông Huỳnh Thiện Thanh T, bà Huỳnh Thị Cẩm T1 là người vay tiền với ông Huỳnh Thiện Thanh T, bà Huỳnh Thị Cẩm T1 là bị đơn là cùng một người, nếu sau này phát sinh tranh chấp việc ông T, bà T1 đã trả xong tiền nợ cho ông P, thì ông P chịu trách nhiệm.
Ông Huỳnh Thiện Thanh T, bà Huỳnh Thị Cẩm T1 đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng ông T, bà T1 không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông P, cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T, bà T1, nên Hội đồng xét xử không xem xét ý kiến hay yêu cầu của ông T, bà T1.
Đối với yêu cầu trả tiền lãi, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của ông P xác định ông P không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nợ gốc, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tiền lãi.
Từ các nhận định nêu trên và căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P, buộc ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 chịu trách nhiệm liên đới trả cho ông P số tiền vay gốc còn nợ là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), là phù hợp với quy định tại Điều 463, 466, 469 Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử do đó được chấp nhận.
[4] Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Nguyên đơn ông Trần Thanh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Bị đơn ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 phải có trách nhiệm liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466, 469, 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 , điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 244, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P.
Buộc ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 chịu trách nhiệm liên đới trả lại cho ông Trần Thanh P số tiền vay gốc còn nợ là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
Bị đơn ông Huỳnh Thiện Thanh T và bà Huỳnh Thị Cẩm T1 phải có trách nhiệm liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).
Nguyên đơn ông Trần Thanh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông Trần Thanh P toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004266 ngày 01/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/3/2024). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản số 26/2024/DS-ST
Số hiệu: | 26/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về