TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 10/2022/DS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG MUA BÁN GẠO
Ngày 10 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố S, tỉnh Đồng Tháp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 141/2021/TLST-DS ngày 25/5/2021 về việc “Tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán gạo”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-DS ngày 10/02/2022 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 10/2022/QĐST-DS ngày 28/02/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1973. Địa chỉ: ấp LH, xã H, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Nguyễn Minh T, sinh năm 1979.
Địa chỉ: ấp HQ, xã TĐ, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long. Là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 04/6/2021).
2. Bị đơn: Công ty TNHH NĐT.
Trủ sở: Đường Đ, ấp TL, xã TQT, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp .
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trường T1, sinh năm 1955. Nơi ở hiện nay: đường NHĐ, Phường A, quận TB, Thành phố H.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Trường T, sinh năm 1955. Địa chỉ: Như trên.
3.2. Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1979.
Địa chỉ: đường HT, Khu phố C, phường MĐ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.
Người đại diện hợp pháp của anh Đ: Ông Nguyễn Trường T1, sinh năm 1955. Địa chỉ: Như trên. Là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 25/5/2021).
Tại phiên tòa: Chị T có mặt. Ông T1 và anh Đ vắng mặt, không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn - ông Nguyễn Thanh P; quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, chị Nguyễn Minh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Trong năm 2017 và 2018, ông Nguyễn Thanh P đã nhiều lần giao dịch mua bán gạo với Công ty TNHH NĐT - do ông Nguyễn Trường T1 là người đại diện theo pháp luật (gọi tắt là “Công ty”). Nội dung giao dịch, cụ thể: Khi nào có thương lái đến bán gạo cho Công ty thì ông P sẽ đứng ra thu mua gạo của thương lái và bán lại cho Công ty để hưởng huê lợi. Tuy nhiên giao dịch diễn ra nhiều lần nên ông P không nhớ họ tên thương lái và cũng không nhớ phần huê lợi thu được của mỗi lần giao dịch là bao nhiêu.
Cho nên, ngày 22/02/2020, giữa ông P và Ông T1 tổng cộng lại số tiền mua bán gạo. Theo phiếu nhập kho do anh Nguyễn Tấn Đ lập thể hiện: Ông P bán cho Công ty 145 tấn gạo, loại gạo xô 504, giá 6.900đ/kg, tính tròn thành tiền là 1.000.000.000đ và hẹn ngày 29/02/2020 Công ty sẽ thanh toán số tiền 7.250.000đ và đến ngày 07/3/2020, Công ty sẽ thanh toán tiếp số tiền 7.250.000đ. Sau đó, Công ty không thanh toán cho ông P lần tiền nào nên vẫn còn nợ số tiền 1.000.000.000đ.
Nay, ông Nguyễn Thanh P yêu cầu Công ty TNHH NĐT, ông Nguyễn Trường T1 và anh Nguyễn Tấn Đ liên đới trả nợ gốc 1.000.000.000đ và tiền lãi tính từ ngày 22/02/2020 đến ngày 22/5/2021 (15 tháng), với lãi suất 0,83%/tháng, thành tiền là 124.500.000đ; tổng cộng là 1.124.500.000đ.
Ngoài ra, ông P không còn yêu cầu gì khác.
Quá trình tham gia tố tụng, ông Nguyễn Trường T1 là người đại diện hợp pháp của bị đơn - Công ty TNHH NĐT; đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; đồng thời, là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Tấn Đ trình bày:
Ông T1 không thống nhất lời trình bày của bên nguyên đơn.
Ông T1 xác định: Công ty không có giao dịch mua bán gạo với ông P. Số tiền 1.000.000.000đ mà Công ty còn nợ ông P là tiền vay. Hình thức vay: Số tiền ông P cho Công ty vay được quy đổi bằng giá gạo tại thời điểm vay; từ số gạo quy đổi, Công ty lập phiếu nhập kho; tiền lãi được tính 10đ/kg gạo. Việc vay tiền quy đổi bằng số lượng gạo diễn ra nhiều lần, lặp đi lặp lại từ năm 2017 đến tháng 6/2019.
Do đó, ngày 22/02/2020, giữa Ông T1 và ông P thống nhất nội dung phiếu nhập kho do anh Đ lập xác nhận: Công ty còn nợ ông P tổng số tiền 1.000.000.000đ và hẹn ngày 29/02/2020 Công ty sẽ thanh toán số tiền 7.250.000đ và đến ngày 07/3/2020, Công ty sẽ thanh toán tiếp số tiền 7.250.000đ. Tuy nhiên cho đến nay, Công ty vẫn còn nợ ông P số tiền 1.000.000.000đ.
Nay, Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ đồng ý liên đới trả cho ông P số tiền nợ gốc 1.000.000.000đ và xin được giảm tiền lãi.
Ngoài ra, Ông T1 không có yêu cầu gì khác.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án đều đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc Công ty TNHH NĐT, ông Nguyễn Trường T và anh Nguyễn Tấn Đ trả cho ông Nguyễn Thanh P tiền mua bán gạo còn nợ là 1.000.000.000đ và tiền lãi tính từ ngày 22/02/2020 đến ngày 22/5/2021 (15 tháng), với lãi suất 0,83%/tháng.
Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật. (Có bài phát biểu kèm theo).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Căn cứ nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan liên đới trả tiền mua gạo còn nợ; xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán gạo”; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố S theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Tại phiên tòa, ông Nguyễn Trường T và anh Nguyễn Tấn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đương sự.
[2]. Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh P yêu cầu Công ty TNHH NĐT, ông Nguyễn Trường T1 và anh Nguyễn Tấn Đ liên đới trả nợ gốc 1.000.000.000đ và tiền lãi tính từ ngày 22/02/2020 đến ngày 22/5/2021 (15 tháng), với lãi suất 0,83%/tháng, thành tiền là 124.500.000đ; tổng cộng là 1.124.500.000đ, HĐXX nhận định:
[2.1]. Về giao dịch được xác lập giữa ông Nguyễn Thanh P và Công ty TNHH NĐT:
[2.1.1]. Đối chiếu lời trình bày của nguyên đơn với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Giữa ông P và Công ty TNHH NĐT giao dịch mua bán gạo nhiều lần, lặp đi lặp lại, trong khoảng thời gian dài bằng hình thức: Ông P đứng ra thu mua gạo của thương lái và bán lại cho Công ty để hưởng huê lợi. Ngày 22/02/2020, hai bên tổng cộng phiếu nhập kho và thống nhất: Ông P bán cho Công ty 145 tấn gạo, loại gạo xô 504, giá 6.900đ/kg, tính tròn thành tiền là 1.000.000.000đ.
[2.1.2]. Ông T1 không thống nhất lời trình bày của bên nguyên đơn. Ông T1 xác định: Số tiền 1.000.000.000đ là tiền ông P cho Công ty TNHH NĐT vay bằng hình thức quy đổi giá gạo tại thời điểm vay; từ số gạo quy đổi, Công ty lập phiếu nhập kho; tiền lãi được tính 10đ/kg gạo. Ngày 22/02/2020, Công ty lập phiếu nhập kho để tổng cộng lại số tiền còn nợ ông P là 1.000.000.000đ. Tuy nhiên, Ông T1 không có chứng cứ gì để chứng minh khoản nợ 1.000.000.000đ là tiền vay.
[2.1.3] Do đó, HĐXX xác định: Số tiền 1.000.000.000đ là tiền mua gạo mà Công ty còn nợ ông P và đủ cơ sở xác định: Giữa ông P và Công ty có xác lập hợp đồng mua bán (gạo) theo quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự 2015; làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
[2.2]. Về nợ gốc:
[2.2.1]. Các bên đương sự đều thừa nhận: Hiện tại, Công ty TNHH NĐT còn nợ ông P số tiền 1.000.000.000đ. Tình tiết này không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự nên HĐXX công nhận.
[2.2.2] Tại khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả tiền: “1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng…”. Theo đó, ông P yêu cầu Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ liên đới trả nợ gốc 1.000.000.000đ là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Song song đó, Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ cũng đồng ý liên đới trả cho ông P nợ gốc 1.000.000.000đ nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyện của đương sự.
[2.3]. Về tiền lãi:
[2.3.1]. Tại khoản 3 Điều 440 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả tiền: “…3. Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”. Tại Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. 2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên…; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”. Theo quy định đã viện dẫn, Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ có nghĩa vụ liên đới trả tiền lãi cho ông P trên nợ gốc 1.000.000.000đ từ ngày 22/02/2020 đến thời điểm xét xử. Xét thấy, ông P chỉ yêu cầu tính lãi từ ngày 22/02/2020 đến ngày 22/5/2021 (15 tháng) theo mức lãi suất 0,83%/tháng là có lợi cho Công ty TNHH NĐT, Ông T1, anh Đ và phù hợp với quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên HĐXX chấp nhận.
[2.3.2]. Theo đó, Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho ông P số tiền lãi bằng:
1.000.000.000đ x 0,83%/tháng x 15 tháng = 124.500.000đ.
[2.4]. Từ những nhận định nêu trên, HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P về việc yêu cầu Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ liên đới trả nợ gốc 1.000.000.000đ và 124.500.000đ tiền lãi; tổng cộng là 1.124.500.000đ.
[3]. Qua ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về nội dung vụ án, đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật, đúng tình tiết nội dung vụ án nên HĐXX chấp nhận.
[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty TNHH NĐT, Ông T1 và anh Đ phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu của ông P được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; các Điều 91, 92 và 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 357, 430, 440, 468 và 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh P.
Buộc Công ty TNHH NĐT, ông Nguyễn Trường T1 và anh Nguyễn Tấn Đ liên đới trả cho ông Nguyễn Thanh P nợ gốc 1.000.000.000đ và 124.500.000đ tiền lãi; cổng cộng là 1.124.500.000đ.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Thanh P số tiền tạm ứng án phí đã nộp 23.250.000đ theo biên lai số 0013756 ngày 25/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố S.
- Công ty TNHH NĐT, ông Nguyễn Trường T1 và anh Nguyễn Tấn Đ liên đới chịu 45.735.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi h ành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán gạo số 10/2022/DS-ST
Số hiệu: | 10/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về