Bản án về tranh chấp của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 186/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 186/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TRANH CHẤP CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 195/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Ngọc T, sinh năm: 1984 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Bảy Ghe, xã H, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm: 1980 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Trùm Thuật B, xã H, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn của chị T ngày 04/4/2022; lời trình bày của chị T và anh V trong biên bản hòa giải ngày 26/5/2022, các đương sự thống nhất trình bày quan điểm và yêu cầu như sau:

- Về hôn nhân: Chị Huỳnh Ngọc T và anh Nguyễn Văn V chung sống với nhau như vợ, chồng từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán nhưng không đăng ký kết hôn theo luật định. Trong quá trình chung sống, chị T và anh V cho rằng vợ, chồng luôn bất đồng quan điểm, thường xuyên cải vả, không thể hòa hợp được với nhau. Nguyên nhân một phần do anh V đam mê cờ bạc làm ảnh hưởng kinh tế gia đình. Trên thực tế anh, chị không còn chung sống vợ, chồng từ nhiều tháng qua.

Từ nội dung trên, chị T nhận thấy tình cảm của vợ, chồng chị không còn, không thể hàn gắn để tiếp tục chung sống và duy trì mối quan hệ vợ, chồng với anh V được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V. Đối với anh V xác định có cờ bạc nhưng do vợ chồng không hiểu nhau nên xảy ra bất hòa. Anh xét thấy vẫn còn thương vợ nên xin được đoàn tụ.

- Về con chung: Chị T và anh V xác định giữa anh, chị có 01 người con chung là Nguyễn Kim Ng, sinh ngày 16/10/2017, hiện đang chung sống cùng anh chị. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi cháu Ng, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V xác định trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì anh đồng ý giao cháu Ng cho chị T nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T, anh V xác định giữa anh, chị không có tài sản chung.

- Về nợ chung: Chị T, anh V khai nhận giữa anh, chị không có nợ chung và không ai nợ lại anh, chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng dân sự: Về loại việc và thẩm quyền của Toà án: Tranh chấp giữa chị Huỳnh Ngọc T và anh Nguyễn Văn V là “Tranh chấp của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân được quy định tại khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đối với việc vắng mặt đương sự: Xét thấy chị T và anh V có yêu cầu xin được vắng mặt trong phiên tòa xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh V theo quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Trên thực tế, chị Huỳnh Ngọc T và anh Nguyễn Văn V có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có chung sống với nhau như vợ, chồng từ năm 2009. Theo chị T và anh V xác định, giữa anh chị không đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân của chị T và anh V đã vi phạm về đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Cho nên việc kết hôn là không thỏa mãn về mặt hình thức, nay chị T có yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân do có nhiều mâu thuẫn, về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, trong thời gian chung sống, chị T và anh V luôn bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình và thường xuyên cải vã, gây bất hòa với nhau mà không bên nào có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn. Bên cạnh đó, chị T xác định tình cảm vợ, chồng giữa chị và anh V không còn nên chị đã ly thân anh V từ nhiều tháng qua.

Theo tinh thần tại điểm b khoản 3 của Nghị quyết 35 của Quốc hội quy định: Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, nam và nữ chung sống với nhau như vợ, chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ, chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Mặt khác, căn cứ khoản 4 Điều 3 của Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ, chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con ... thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét mâu thuẫn thực tế của chị T và anh V đến mức trầm trọng, đời sống chung hiện tại cũng không còn nên mục đích hôn nhân không đạt được, đồng thời hôn nhân có vi phạm về mặt hình thức nên không được công nhận là vợ, chồng.

[3] Về con chung: Chị T và anh V xác định giữa anh, chị có 01 người con chung là Nguyễn Kim Ng, sinh ngày 16/10/2017. Xét thấy cháu Ng hiện còn nhỏ và là nữ giới nên việc chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp của người mẹ sẽ thuận tiện hơn, dễ gần gũi, cảm thông, chia sẻ hơn đồng thời quan điểm của anh V cũng thống nhất giao cháu Ng cho chị T nuôi. Do đó giao cháu Nguyễn Kim Ng cho chị Huỳnh Ngọc T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Chị T, anh V xác định giữa chị và anh không có tài sản chung nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị T và anh V khai nhận giữa ông, bà không có nợ chung và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Chị T là nguyên đơn nên chị phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị T và anh V được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 9, Điều 14, Điều 15 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 3 của Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1 - Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Huỳnh Ngọc T và anh Nguyễn Văn V.

2 - Về con chung: Giao cháu Nguyễn Kim Ng, sinh ngày 16/10/2017 cho chị Huỳnh Ngọc T nuôi dưỡng, không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Văn V không trực tiếp nuôi con vẫn được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của người trực tiếp nuôi con.

3 - Về tài sản chung: Chị T và anh V xác định không có nên không đặt ra xem xét.

4 - Về nợ chung: Chị T và anh V khai nhận giữa chị và anh không có nợ chung và không ai nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

5 - Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Chị T phải chịu 300.000đ, ngày 14 tháng 4 năm 2022, chị T đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T theo biên lai sô: 4662 được đối trừ chuyển thu.

6 - Về quyền kháng cáo: Chị T và anh V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 186/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:186/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về